Ngày Nay số Xuân Ất Tỵ 2025

SỐĐẶCBIỆT TẠP CHÍ W W W . N G AY N AY. V N MIỄN PHÍ CƠQUAN NGÔN LUẬN CỦA LIÊN HIỆP CÁC HỘI UNESCOVIỆT NAM ORGAN OF VIETNAM NATIONAL FEDERATION OF ASSOCIATIONS FOR UNESCO Ảnh: HoàngHà Xuân 2025 Ất Tỵ

1900 558 868 www.vietinbank.vn N G A Y N A Y . V N 3 Xuân 2025

Trong quá trình sưu tầm tài liệu, hiện vật liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch đã được các ông Trần Văn Vượng và ông Đoàn Đỗ (tức Đỗ Uông), tặng bảy tấm thiếp chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Trần Văn Vượng sinh năm 1924 tại thành phố Hải Phòng. Tham gia cách mạng từ năm 1941. Sau năm 1945 là cán bộ truyền bá quốc ngữ thành phố Hải Phòng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ông tham gia lớp học cơ yếu do Phủ Thủ tướng và Văn phòng Trung ương mở, sau đó làmviệc tại Văn phòng Trung ương. Năm 1958, được cử sang làm việc tại Văn phòng Bác Hồ chuyên làm Văn thư - Hành chính, đánh máy các văn bản của Bác, trong đó có khối tài liệu viết tay của Bác được đánhmáy lại cho rõ để gửi đăng báo Nhân Dân. Sau ngày Bác mất, ông sang phục vụ ở Văn phòng Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Năm 1980, ông được cử sang làm việc tại Văn phòng Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và nghỉ hưu năm 1990. Tháng 5/2000, ông Trần VănVượngđã tặngKhuDi tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch ba tấm thiếp chúc mừng năm mới trong đó có hai tấm thiếp năm 1967, một tấm thiếp năm 1969. Trong thời gian công tác tại Văn phòng Thủ tướng Phạm Văn Đồng ở Khu Phủ Chủ tịch Hà Nội, ông Đoàn Đỗ được Chủ tịch Hồ Chí Minh cho một số thiếp chúc mừng năm mới, ông còn giữ được bốn chiếc và tháng 3/2007 tặng lại cho Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. Những tấm thiếp ông Vượng tặng lại Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch có chiều rộng 10cm, dài 31,5cm và được gập đôi. Mặt trước in hình Quốc huy nước Việt NamDân chủ Cộng hòa, mặt trong bên trái tờ thiếp in chữ“Chúcmừng năm mới muôn sự tốt lành”, phía dưới in ngày tháng và chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng chữHán (tấmthiếpnăm 1967), 2 tấm có chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng tiếng Việt (một tấm năm 1967; một tấm năm 1969) bên phải in hai bông hồng đỏ, lá xanh. Thiếp có chữ ký viết tay của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chữ Hán bằng mực xanh Cửu Long. Còn những tấm thiếp chúc mừng nămmới của ông Tết của Bác Hồ. Từ sau khi về ở và làm việc tại Khu Phủ Chủ tịch, Người có thiếp chúc mừng nămmới gửi đến nguyên thủ các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đặc biệt các nước anh em gần gũi như: Liên Xô, Trung Quốc,... Riêng những tấm thiếp in bằng chữ Trung Quốc có chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng chữ Hán thì được gửi tới các nguyên thủ quốc gia ở một số nước viết chữ tượng hình như Triều Tiên, Trung Quốc, Nhật Bản... Theo lời kể của một số nhân chứng khác như ông Vũ Kỳ - nguyên thư ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Cù Văn Chước và ông Trần Văn Vượng - nguyên cán bộ Văn phòng Phủ Chủ tịch, nhân dịp đầu năm mới, dù bận công việc đến đâu, Chủ tịch Hồ Chí đề năm. Thiếp có chiều rộng 6,2cm, dài 9,5cm, màu hồng, mặt trước có chữ: “Kính mừng nămmới”. Mặt sau in ba hàng chữ Hán, có màu đỏ và đen, tạm dịch là: “Cung chúc”, “Tân hỷ”, “Cúc cung”nghĩa là: “Chúc mừng nămmới”. Từ năm 1942, cứ vào dịp năm mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường gửi thư, thơ chúc Tết tới toàn thể nhân dân. Thơ và lời chúc Tết của Người thể hiện được những tư tưởng, tình cảm sâu sắc. Thơ chúc Tết của Bác Hồ được viết rất đơn giản, nhưng hàm súc đường lối cách mạng, bộc lộ sâu sắc lòng yêu nước, thương dân, tin dân, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng, tin vào tương lai của dân tộc. Cứ đến ngày cuối cùng của năm cũ ai nấy đều mong giao thừa đến, để được nghe thơ chúc Những tấm thiếp chúc Tết Đoàn Đỗ tặng lại Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch gồm: - Một tấm thiếp chúc Tết năm 1956: Có chiều rộng 11cm, dài 14cm, màu vàng nhạt, bên trái in hoa hồng màu đỏ lá xanh, ở giữa in bài thơ chúc tết của Người: “Thân ái mấy lời chúc Tết: Toàn dân đoàn kết một lòng, Miền Bắc thi đua xây dựng, Miền Nam giữ vững thành đồng, Quyết chí, bền gan phấn đấu Hòa bình thống nhất thành công”. Ngày 1-1-1956 HỒCHÍ MINH - Một tấm thiếp chúc Tết năm 1957: Thiếp có chiều rộng là 9,8cm, dài 14,8cm, màu vàng nhạt, xung quanh trang trí hoa văn kiểu hoa leo, ở giữa in dòng chữ: “Chúc mừng năm mới”. Phía dưới in dòng chữ Hồ Chí Minh. - Một thiếp chúc mừng năm 1958: Thiếp có chiều rộng 10cm, chiều dài 14cm, màu hồng nhạt, ở giữa in dòng chữ: “Chúc mừng năm mới”. Phía dưới in dòng chữ Hồ Chí Minh. - Một tấm thiếp chúc mừng nămmới nhưng không rõ năm nào vì thiếp không Thiếp chúc Tết năm1947. Thiếp chúc Tết năm1956. Thiếp chúc Tết năm1948. N G A Y N A Y . V N 4 Xuân 2025

Minh vẫn giữ nếp đọc thơ, gửi thư và thiếp chúc Tết đến đồng bào, chiến sĩ cả nước và kiều bào nước ngoài. Người thường gửi thư và đọc thơ chúc Tết qua đài phát thanh, còn những tấm thiếp in bằng chữ Hán được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tới nguyên thủ quốc gia các nước anh em trên thế giới. Công việc này được chuẩn bị rất chu đáo. Thường sau khi kỷ niệm Quốc khánh ngày 2/9, Người nhắc ông Vũ Kỳ lo chuẩn bị thiếp chúc Tết để đến tháng 12 đưaNgười ký và gửi đi trước lễ Nôen. Thực hiện ý kiến của Người, ông Vũ Kỳ và ông Cù Văn Chước tìm một số mẫu hoa in trên thiếp. Việc chọn mẫu hoa in trên thiếp cũng được ông Vũ Kỳ và anh em trong Văn phòng chọn trước, thường lấybamẫuhoanhưng để khỏi làmmất thời gian các đồng chí chỉ đưa lên hai mẫu để Người duyệt. Có lần nhân buổi họp Bộ Chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh bảo ông Vũ Kỳ đưa việc chọn hoa in trên thiếp ra để hỏi ý kiến tập thể. Đa số chọn mẫu nào là Người duyệt mẫu đó. Để tiết kiệm thời gian của Người, vào tháng 12 hằng năm, trước bữa ăn sáng, các đồng chí phục vụ chuẩn bị để sẵn khoảng từ 10 đến 20 tấm thiếp trên bàn làm việc ở nhà tiếp cán bộ (BK1) rồi ông Cù Văn Chước hoặc ông Trần Văn Vượng lần lượt đặt từng chiếc để Người ký, ký được cái nào các ông lại nhấc ra ngoài để mực không bị nhòe. Trước khi gửi thiếp đi các nước, một số anh em trong Văn phòng Phủ Chủ tịch thường xin giữ lại một vài tấm để làm kỷ niệm. Ông Trần Văn Vượng và ông Đoàn Đỗ cũng là một trong số những người xin được thiếp, giữ lại và tặng cho cơ quan như đã nêu trên. Danh sách gửi thiếp bao giờ cũng được duyệt sẵn, cán bộ Văn phòng Phủ Chủ tịch cứ theo danh sách đó gửi đi. Riêng thiếp gửi ra nước ngoài thì được đưa sang Vụ lễ tân Bộ Ngoại giao để Bộ Ngoại giao gửi. Cũng theo các nhân chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc gửi thiếp chúc mừng nên thường hỏi xem anh em đã gửi thiếp đi chưa? Khi các cán bộ Văn phòng Phủ Chủ tịch báo cáo lại với Người là đã gửi, bao giờ Người cũng khen“Tốt”. Giấy in thiếp gửi các bộ, ngành trong nước có màu hồng, còn gửi ra nước ngoài có màu trắng vì in hoa dễ nổi và loại giấy này được nhập từ Hồng Kông (thời điểm lúc đó Việt Nam chưa sản xuất được giấy loại tốt) và những tấm thiếp này đều được in tại Nhà máy in Tiến Bộ. Những tấm thiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được trân trọng gửi tới các đại sứ quán, lãnh sự quán của các nước ởViệt Nam. Tấm thiếp chúc Tết như một món quà tinh thần đầu năm để thắt chặt thêm tình hữu nghị thân thiết giữa dân tộc Việt Nam và bè bạn quốc tế. Nhất là vào những năm 1956, 1957, 1958, 1966, 1967, 1969 dân tộc ta đang phải đương đầu với cuộc chiến tranh ác liệt do đế quốc Mỹ gây ra, thì việc mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước anh em trên thế giới là hết sức cần thiết, để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ quốc tế đối với cách mạng Việt Nam, nhằm thúc đẩy cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi. Như vậy, những tấm thiếp chúcTết của Bác Hồ chứa đựng tình cảm, mong ước hòa bình của Người và của cả dân tộc Việt Nam, nó đóng góp rất lớn trong việc bắc nối những nhịp cầu đối ngoại giữa Việt Nam với thế giới. Những tấm thiếp chúc Tết này là hiện vật có ý nghĩa, cần được đưa vào bảo quản, được nghiên cứu để lập hồ sơ khoa học. Qua những tấm thiếp có thể thấy thêm những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những ngày Người sống và làm việc ở Khu Phủ Chủ tịch và góp phần vào nghiên cứu đường lối đối ngoại của Người, của Việt Namtrong những năm60 của thế kỷ XX. (Trích sách “Chuyện kể về Bác Hồ qua các tài liệu và hiện vật”, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật năm2020, trang 49-60). của Bác Hồ Thơ chúc Tết năm1951. Thơ chúc Tết năm1953. Tấmthiếp chúc Tết năm1969. Tấmthiếp chúc Tết năm1965. N G A Y N A Y . V N 5 Xuân 2025

Thực hiện đúng ước nguyện trong di chúc của Bác Hồ đó là “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàumạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cáchmạng thế giới”. Trong bối cảnh tình hình thế giới có những cơ hội, song cũng xuất hiện nhiều khó khăn, thách thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phát huy tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”, lấy đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế trong sáng làmđộng lực, huy động mạnhmẽ sức dân, gắn kết chặt chẽ ý đảng với lòng dân làmnền tảng, nhất định Việt Nam sẽ tiến vào kỷ nguyênmới, kỷ nguyên vươnmình của dân tộc, không ngừng phấn đấu, đóng góp nhiều hơn nữa duy trì hòa bình, ổn định, phát triển ở khu vực và trên thế giới. Tổng Bí thư Tô Lâm (Phát biểu tại Lễ kỷ niệm 79 nămNgày Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) Sau gần bốn thập kỷ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, từ tro tàn chiến tranh, Việt Namđã vươn lên trở thành biểu tượng của hoà bình, điểm sáng của kinh tế thế giới và đất nước của những cơ hội. Giờ đây, Việt Nam bước vào kỷ nguyênmới, với tâm thế mới, với khát vọng mãnh liệt phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và với niềm tin vững chắc vào tương lai tươi sáng. Hành trang của chúng tôi là một nền kinh tế phát triển nhanh, năng động với quy mô thứ 35 thế giới; có hệ thống chính trị vững mạnh, ổn định, lấy nhân dân làm trung tâm; Việt Nam là một dân tộc yêu nước, tự tin, tự lực, tự cường, với dân số hơn 100 triệu người; và chúng tôi có nhiều bạn bè, đối tác quốc tế rộng khắp năm châu. Chủ tịch nước Lương Cường (Phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Doanh nghiệp APEC 2024) VỮNG BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN HàNội - trái tim của cảnước. Ảnh: LêHiếu N G A Y N A Y . V N 6

ThànhphốHồChíMinhnhìn từ trên cao, Thànhphố xác định sứmệnh làđầu tàu dẫndắt khuvựcĐôngNamBộvàvùng kinh tế trọngđiểmphíaNamtrongkỷ nguyênvươnmình củadân tộc. Thông điệp về “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” như một lời hiệu triệu, thúc giục tinh thần hành động, đổi mới sáng tạo dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Cùng với cải cách mô hình tổ chức tổng thể hệ thống chính trị, với quy mô một cuộc cách mạng. Tới đây, Trung ương gương mẫu đi đầu trong sắp xếp, từ Đảng, Quốc hội, Chính phủ, bộ, ngành; Trung ương thế nào địa phương thế đó, để giảm cồng kềnh bộ máy, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả… Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn (Phát biểu tại buổi tiếp xúc cử tri tỉnh Hậu Giang ngày 14/12/2024) VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC ThànhphốHồChíMinh - thànhphốnăngđộng, phát triển. Ảnh: ThịnhLa Trong thế giới đầy biến động với nhiều khó khăn, thách thức ngày nay, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để chúng ta bứt phá, vươn xa, bay cao, hội nhập trong tiến trình phát triển, làm cho thế giới, nhân loại ngày càng tốt đẹp, ấmno và hạnh phúc hơn. …Việt Nam luôn đặc biệt quan tâmđến khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, coi đây là yêu cầu khách quan, là lựa chọn chiến lược, là ưu tiên hàng đầu và là quốc sách để thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyênmới - kỷ nguyên vươnmình giàumạnh, thịnh vượng của dân tộc. Thủ tướng Chính phủ PhạmMinh Chính (Phát biểu tại Lễ trao giải thưởng VinFuture năm 2024) N G A Y N A Y . V N 7 Xuân 2025

1. Nhận biết dạng thức và giá trị của một tài nguyên mới trong cách mạng công nghiệp 4.0 Tại sao hiện nay người ta coi dữ liệu là một tài nguyên mới? Vài thập niên gần đây nhân loại đã bắt đầu vàomột trình độ phát triển mới với các dấu hiệu đổi mới trong quá trình sản xuất, trao đổi, tiêu dùng và quản lý. Các Mác (Karl Marx) có một tư tưởng: Thời đại này khác với thời đại khác không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ sản xuất bằng phương thức nào. Chúng ta đang ở điểm giao thời của thời đại mà tài nguyên - một trong những “đầu vào” của các quá trình kể trên, đang được bổ sung một dạng thức mới: dữ liệu thông tin. Thật ra, nó không mới, vì quá trình sản xuất hàng hóa của nhân loại, từ lâu đã bắt đầu bằng những dữ liệu thông tin. Chẳng hạn chúng góp phần trả lời câu hỏi mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải đặt ra: sản xuất cái gì, bán cho ai, làm thế nào để tối ưu hóa giá trị... Nhưng trong kỷ nguyên kinh tế tri thức hiện nay, vấn đề dữ liệu đang xuất hiện mạnh mẽ hơn, có vai trò to lớn hơn trước đây rất nhiều. Nhiều nhà nghiên cứu đã coi nó như tài nguyên, là vốn thậm chí là tài sản để định đoạt quy mô của một doanh nghiệp. Trước đây người giàu có được lượng hóa tài sản bằng tiền bạc, đất đai, tư liệu sản xuất... đã sở hữu hoặc chiếm dụng được, thì ngày nay quy mô giàu có và quyền lực lại thêm một thước đo mới: sở hữu được nhiều dữ liệu, thông tin. Dữ liệu là một trong những tài sản ảo của một chủ thể. Vậy dữ liệu là gì? Nhận thức một cách khái quát nhất, dữ liệu (data) là một một khái niệm rộng dùng để chỉ một số thông tin hoặc kiến thức hiện có (bao gồm các số liệu, dữ kiện, hình ảnh, sự kiện, xu hướng...) diễn ra trong đời sống, được nhận thức của con người phản ánh, ghi nhận và được máy tính điện tử mã hóa. Nó giúp cho người ta những giai đoạn ban đầu của nhận thức lý tính: cảmgiác, tri giác, biểu tượng và khái niệm; sau khi đã đủ dữ liệu thì phán đoán và suy lý là công việc cuối của nhận thức con người. Trước đây khi chưa có cơ sở dữ liệu (database) trên máy tính thì con người hầu như phải làm trọn các khâu của quá trình nhận thức, để từ đó mà đưa ra các quyết định một cách “thủ công”. Dĩ nhiên công việc đó vô cùng vất vả, chậm chạp và thường là ít ỏi. Trong sản xuất, dịch vụ và quản lý hiện đại, dữ liệu và thông tin đã được coi là đầu vào của các quá trình thực tiễn. Hiệu quả của các quá trình này về cơ bản được quy định bởi 2 yếu tố là công nghệ và quyết định DỮLIỆU - Tài nguyên trong PGS.TS NGUYỄN AN NINH định về sản xuất và giá cả... Trên thế giới hiện nay, 80% dữ liệu là dữ liệu “tài nguyên thô”. Dữ liệu là “tài nguyên tinh” hay dữ liệu đã được xử lý hoặc “dữ liệu có cấu trúc” là những thông tin đã được sắp xếp, có hệ thống, có định hướng, khá chính xác và có ý nghĩa, có giá trị với người tiếp nhận để từ đó ra các quyết định đúng đắn. Trên thế giới hiện nay chỉ có 20 % dữ liệu được coi là tài nguyên tinh, tức là dữ liệu đã được xử lý. thô” hay “dữ liệu không có cấu trúc”, bao gồm các con số, sự kiện, vấn đề... khá rời rạc, “trung tính” và mang nhiều hàm ý khác nhau tùy theo chủ thể nhận thức tiếp nhận dữ liệu. Ví dụ thông tin về biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra ở Nam Mỹ với hạn hán hoặc lụt lội, có thể “trung tính” với người nghe bình thường và là dữ liệu không có cấu trúc; nhưng với người sản xuất cà phê ở Việt Nam là một dữ liệu tham khảo có ích để đưa ra quyết của nhà sản xuất hoặc nhà quản lý. Quyết định như thế nào lại tùy thuộc vào việc anh ta có đủ hay không các dữ liệu đầu vào. Các dạng thức tồn tại của dữ liệu. Hiện nay khoa học về dữ liệu đã phân loại nó theo một số tiêu chí gắn liền với vai trò là tài nguyên, qua đó ta thấy được một vài dạng thức tồn tại cơ bản: Dữ liệu là “tài nguyên Trung tâm cơ sởdữ liệu. ẢnhminhhọaAI Dữ liệu nảy sinh từ hoạt động thực tiễn cho nên nó tăng lên hàng ngày, theo cấp số nhân. Theo đó, quá trình tích lũy và xử lý dữ liệu là không ngừng. N G A Y N A Y . V N 8

TẦMNHÌNĐẾNNĂM2045 Khoahọc,côngnghệ,đổimớisángtạovàchuyểnđổisốpháttriểnvữngchắc, gópphầnđưaViệtNamtrởthànhnướcpháttriển,cóthunhậpcao.ViệtNam cóquymôkinhtếsốđạttốithiểu50%GDP;làmộttrongcáctrungtâmcông nghiệpcôngnghệsốcủakhuvựcvàthếgiới;thuộcnhóm30nướcdẫnđầuthế giớivềđổimớisángtạo,chuyểnđổisố.Tỉlệdoanhnghiệpcôngnghệsốtương đươngcácnướcpháttriển;tốithiểucó10doanhnghiệpcôngnghệsốngang tầmcácnướctiêntiến.Thuhútthêmítnhất5tổchức,doanhnghiệpcôngnghệ hàngđầuthếgiớiđặttrụsở,đầutưnghiêncứu,sảnxuấttạiViệtNam. (Nghị quyết số 57-NQ/TWngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia ) Chẳng hạn, các dữ liệu về xu thế cạn kiệt tài nguyên dầu mỏ than đá; về ứng xử giảm phát thải cacbon để giảm hiện tượng khí hậu trái đất nóng lên; xu thế thay thế các loại xe có động cơ đốt trong dùng xăng dầu bằng các loại xe chạy bằng điện; hệ quả là tăng nhu cầu về đất hiếm để chế tạo ắc quy - pin... Tất cả thông tin trên đều là những dữ liệu có cấu trúc và hữu ích với nhà quản trị quốc gia để ra quyết định về “tăng cường quản lý tài nguyên đất hiếm”. Điểm qua một vài dạng thức tồn tại của dữ liệu để thấy rằng với người Việt Nam, nó không quá xa lạ. Nhiều người trong chúng ta đang tham gia vào quá trình xây dựng, xử lý, sử dụng và tái tạo tài nguyên dữ liệu một cách tự giác hoặc không tự giác. Cần hiểu rõ hơn về tài nguyên dữ liệu. Vốn là một quốc gia đang phát triển, ở nước ta không phải ai cũng đã hiểu và sử dụng đúng đắn về tài nguyên “mới” này. Các nghiên cứu của khoa học dữ liệu và quản trị thông tin cho biết: Trước hết, có sự khác biệt giữa dữ liệu và thông tin. Dữ liệu có thể là một tập hợp tản mạn với những con số, sự kiện, tư liệu tản mạn và chưa rõ ý nghĩa, giá trị. Khi nó được xắp xếp, chỉnh lý và có tính định hướng cho một hoạt động với ý nghĩa rõ ràng và hữu ích cho việc ra quyết định thì khi đó mới là thông tin. Như vậy dữ liệu phải qua xử lý mới là thông tin. Thông tin là kết quả của việc xử lý và sắp xếp dữ liệu. Dữ liệu và thông tin đều có tính đa trị: Nó là tiền đề của các quyết định trong sản xuất, dịch vụ và quản lý. Thiếu thông tin rất có thể đưa ra những quyết định thiếu chính xác. Ở góc độ này dữ liệu và thông tin là tài nguyên, là đầu vào cho quá trình ra quyết định. Mặt khác, dữ liệu có thể có giá trị hữu ích với người này, nhưng lại “trung tính” với người khác là bởi trình độ sản xuất, góc tiếp cận và nhu cầu khác nhau. Trình độ sản xuất càng cao thì nhu cầu về thông tin càng lớn. Gần nửa thế kỷ trước, Việt Nam mới chỉ bán những cái mình có. Đến nay, trong quá trình đổi mới và hội nhập, nền kinh tế hướng tới xuất khẩu của nước ta đã “bán những cái mà thế giới cần”. Muốn đạt tới trình độ cao của sản xuất hàng hóa thì trước tiên phải đầy đủ các thông tin về nhu cầu khách hàng, đặc điểm của thị trường, phương thức tiếp thị... Dữ liệu và thông tin có thể giống nhau nhưng cách xử lý khác nhau có thể đưa đến kết quả những kết quả khác nhau. Sự khác biệt này, xét đến cùng lại do lượng thông tin - tri thức tích lũy được của chủ thể xử lý dữ liệu. Truyện cổ tích “Đồng tiền Vạn Lịch” có những chi tiết thú vị: người chồng là dân chài cầm thoi vàng ném đuổi gà vì anh ta không biết đó là vật có giá trị cao. Người vợ trách, anh ta bảo vì không biết, nhưng anh đã thấy thứ này khá nhiều dưới sông. Như vậy, thiếu thông tin và thông tin chưa được xử lý, kết nối là vấn đề lớn nhất. Hiểu rõ các đặc tính của dữ liệu. Dữ liệu nảy sinh từ hoạt động thực tiễn cho nên nó tăng lên hàng ngày, theo cấp số nhân. Theo đó, quá trình tích lũy và xử lý dữ liệu là không ngừng. Lĩnh vực nào cũng cần dữ liệu và thông tin và có thể thông tin của lĩnh vực này là dữ liệu của lĩnh vực khác, vì vậy quản trị dữ liệu đã trở thành một ngành sản xuất, vì nó giúp cho tất cả các lĩnh vực hoạt động có hiệu quả. Dữ liệu và thông tin đang ngày càng trở nên cần thiết và có giá trị cao; cho nên các hoạt động liên quan như trao đổi dữ liệu, tích hợp, tái sử dụng dữ liệu, chuyển từ sở hữu riêng dữ liệu sang chia sẻ dữ liệu sử dụng chung và cùng hưởng các lợi ích mà dữ liệu mang lại... thì các vấn đề như đánh cắp thông tin, thông tin giả, lộ lọt thông tin... cũng xuất hiện thường xuyên và cần được quản trị bằng các bộ luật với sự hỗ trợ của các công nghệ hiện đại. 2. Nhận thức đầy đủ giá trị và đẩy mạnh khai thác, tái tạo và bảo vệ tài nguyên dữ liệu để đất nước phát triển với trình độ mới Sựnghiệpđẩymạnh toàn diện CNH, HĐH và chủ động tích cực hội nhập với thế giới đang hướng tới CMCN 4.0 là cơ sở thực tiễn để chúng ta đổi mới tư duy về khai thác và sử dụng dữ liệu. Nhận thức dữ liệu là tài nguyên mới của quốc gia, yếu tố then chốt cho quá trình chuyển đổi số là một tư duy mới trong quản trị quốc gia. Quan điểm chung mà “Chiến lược dữ liệu quốc gia đến năm 2030” nêu rõ là: “Dữ liệu là nguồn tài nguyên mới, là yếu tố then chốt cho chuyển đổi số quốc gia, tạo ra giá trị mới thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và phục vụ lợi ích người dân.” Với tầm nhìn: “Dữ liệu của Việt Nam mở ra không gian hoạt động và phát triển mới cho Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số; cơ bản phản ánh đầy đủ mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội trên môi trường số và là nhân tố thúc đẩy tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, đảm bảo cho tiến trình chuyển đổi số thành công, đưa Việt Nam trở thành quốc gia số an toàn. Dữ liệu góp phần chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, đưa Việt Nam vượt qua mức thu nhập trung bình thấp, đạt mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và đạt mức thu nhập cao vào năm 2045.” Mục tiêu của Chiến lược này đến năm 2030 bao gồm: “Phát triển hạ tầng dữ liệu”, “Phát triển dữ liệu phục vụ Chính phủ số”, “Phát triển dữ liệu phục vụ kinh tế số, xã hội số” và “Bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng”. Để khai thác, sử dụng, làm giàu và bảo vệ tài nguyên mới này, Thủ tướng Chính phủ xác định ba trọng tâm: Một là đẩy mạnh việc tạo lập dữ liệu thông qua việc kết nối, chia sẻ, khai thác các cơ sở dữ liệu quốc gia; Hai là đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cấp, hiện đại hóa hạ tầng số. Ba là, tăng cường công tác truyền thông về chuyển đổi số. Chủ thể của quá trình này không chỉ là các bộ, ngành, địa phương mà còn là toàn dân. Chung tay với Đảng và Nhà nước, tham gia tích cực vào quá trình xây dựng, xử lý, chia sẻ và bảo vệ dữ liệu và thông tin, mỗi người dân hãy góp phần để xây dựng chính phủ số, xã hội số và Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển thông minh. n kỷ nguyênmới Ảnhminhhọa. Cơ sởdữ liệu đóngvai trò quan trọng trongphát triển kinh tế đất nước. N G A Y N A Y . V N 9 Xuân 2025

Ở Việt Nam, sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, mạng Internet và các ứng dụng công nghệ cao đã mở ra những cơ hội lớn để xây dựng một xã hội số hiện đại, nâng cao năng suất lao động, cải thiện chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, hành trình này cũng đi kèm với không ít thách thức và đòi hỏi sự nỗ lực từ mọi thành phần trong xã hội. Bài viết này sẽ phân tích những yếu tố chính, tầmquan trọng của chuyển đổi số, xã hội số đối với Việt Nam, và cáchViệt Namcó thể tận dụng các cơ hội để trở thành một quốc gia số tiên phong. 1. Chuyển đổi số - Nền tảng của xã hội số Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Phát triển nhanh và bền vững, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (CĐS). Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệuquả các cơhội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số và coi đây là nhân tố quyết định nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”. Đại hội cũng khẳng định, cùng với sựphát triểnmạnh mẽ khoa học - công nghệ và đổi Nghị quyết số 57-NQ/TW cũng chỉ rõ: “Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàumạnh trongkỷnguyênmới”. Chuyển đổi số giúp tối ưu hóa chi phí, tăng cường hiệu quả hoạt động và tạo ra các mô hình kinh doanh mới. Các nền tảng thương mại điện tử là những ví dụ điển hình tại Việt Nam. Công nghệ đã thay đổi cách thức dạy và học thông qua các nền tảng trực tuyến. Sự xuất hiện của bệnh án điện tử, tư vấn y tế từ xa và các ứng dụng chăm sóc sức khỏe cá nhân đã giúp cải thiện chất lượng dịch vụ y tế. Chính phủ Việt Nam đã và đang triển khai các dịch vụ công trực tuyến, giúp tiết kiệmthời gian và chi phí cho người dân. 2. Xã hội số - Định hình cuộc sống tương lai Xã hội số là một khái niệm rộng hơn, đề cập một xã hội mà trong đó công nghệ số thâm nhập vào mọi khía cạnh của đời sống, từ giáo dục, y tế, giao mới sáng tạo, CĐS là một trong ba trụ cột thực hiện phát triển nhanh, phát triểnbềnvững; đồng thời làmột trongnhững khâuđột phá lớn, gópphần“tạobứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”. Cong cuọc CĐS ơ Viẹt Nam đưc băt đâu tư Nghi quyêt sô 36-NQ/TW ngay 01/7/2014 cua Bọ Chinh tri (khoa XI) vê đẩy manhưngdung, phat triênCNTT đap ưng yeu câu phat triên bên vưng va họi nhạp quôc tê; đưc cung cô trong Nghi quyêt sô 52NQ/TW ngay 27/9/2019 cua Bọ Chinh tri vê mọt sô chu trưng, chinh sach chu đọng tham gia cuọc Cach mang cong nghiẹp lân thư tu va đưc thê hiẹn trong Van kiẹn Đai họi XIII cua Đang, Chưng trinh CĐS quôc gia, Chiên lưc phat triên Chinh phu sô, Chiên lưc quôc gia phat triên kinh tê sô, (KTS) xa họi sô (XHS), Chiên lưc quôc gia vê dư liẹu sô va Đê an 06, cung nhiêu Nghi quyêt cua Quôc họi, Chinh phu co lien quan tơi vân đê nay. Đặc biệt, ngày 22/12/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Nghị quyết 57-NQ/ TW khẳng định “Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyênmới - kỷ nguyên vươnmình của dân tộc”. Chuyển đổi số không chỉ đơn thuần là việc áp dụng công nghệ vào các hoạt động kinh doanh, quản lý hay sản xuất, mà còn là một quá trình thay đổi toàn diện cách thức vận hành, tư duy và sáng tạo giá trị. Nó bao gồm việc số hóa dữ liệu, tự động hóa quy trình, áp dụng trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây và các công nghệ tiên tiến khác để nâng cao hiệu quả và tạo ra những giá trị mới. Vai trò của chuyển đổi số rất quan trọng, không chỉ giúp tối ưu hóa các nguồn lựcmà còn thúc đ y sự minh bạch, linh hoạt và khả năng thích ứng với những biến động của thị trường. Trong bối cảnh Việt Nam, Chính phủ đã xác định chuyển đổi số là một trong những trụ cột chính của chiến lược phát triển quốc gia. Đề án Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một quốc gia số tiên tiến, với ba trụ cột chính: Chính phủ số, Kinh tế số, Xã hội số. Điều này thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc tận dụng công nghệ để thúc đ y sự phát triển toàn diện và bền vững. Đại hội XIII xác định thúc đ y mạnh mẽ CĐS là một trong những trọng tâm chính của nhiệm kỳ tiếp theo: “Đ y mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cách mạng công nghệ 4.0 để khoa học - công nghệ thực sự là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Thúc đ y mạnh mẽ chuyển đổi số để tạo bứt phá về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Chuyển đổi số và xã hội số không chỉ là xu hướng mà còn là nhu cầu tất yếu trong thời đại công nghệ hiện nay. Chuyển đổi số và xã hội số Phát triểnkhoahọc, côngnghệ, đổimới sáng tạovà chuyển đổi sốđang làyếu tốquyết địnhphát triểncủa cácquốc gia; làđiềukiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất đểnước taphát triểngiàumạnh, hùngcường trong kỷnguyênmới - kỷ nguyênvươnmình củadân tộc. TRẦNMAI HƯƠNG Ảnhminhhọa. N G A Y N A Y . V N 10

thông, đến văn hóa, giải trí và giao tiếp hàng ngày. Trong một xã hội số, con người không chỉ là người sử dụng công nghệ mà còn trở thành những công dân số, với khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ sốmột cách dễ dàng và hiệu quả. Tại Việt Nam, xã hội số đang dần hình thành thông qua các ứng dụng công nghệ trong các lĩnh vực quan trọngnhưgiáodục, tài chính, y tế... Đặcbiệt, ứngdụng địnhdanhđiện tửquốc giaVNeID đã tích hợp nhiều loại giấy tờ như Căn cước công dân, Giấy phép lái xe, Bảo hiểm, Giấy đăng ký xe... và các dịch vụ công như Thông báo lưu trú, Đăng ký thường trú, Đăng ký tạm trú... Việt Nam cần đ y mạnh số hóa trong hoạt động quản lý nhà nước, bao gồm lưu trữ dữ liệu, quản lý thông tin công dân, và thực hiện các thủ tục hành chính. Quá trình này không chỉ hiện đại hóa phương thức quản lýmà còn góp phần giảm thiểu chi phí, thời gian xử lý hồ sơ, đồng thời nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong quản trị, giúp người dân tiếp cận các dịch vụ công nhanh chóng và dễ dàng hơn. Để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân, dịch vụ công trực tuyến cần được mở rộng và nâng cấp toàn diện. Điều này bao gồm việc phát triển các nền tảng như thanh toán điện tử, đăng ký thủ tục hành chính trực tuyến, cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục trên nền tảng số. Các dịch vụ này không nên chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin, mà cần đạt đến mức độ hoàn chỉnh, nơi người dân có thể thực hiện toàn bộ quy trình từ đăng ký, xử lý cho đến nhận kết quả một cách trọn gói và liền mạch. Đây sẽ là bước tiến quan trọng để xây dựngmột chính phủ số hiện đại, phục vụ hiệu quả cho nhu cầu của người dân và doanh nghiệp. Mọi người, mọi thiết bị và mọi dịch vụ đều được kết nối thông qua Internet và các nền tảng số. Các thông tin được lưu trữ, quản lý và chia sẻ một cách minh bạch. Dữ liệu trở thành tài nguyên quan trọng, định hướng các quyết định chiến lược. 3. Cơ hội và thách thức trong hành trình chuyển đổi số và xã hội số Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi số đầy hứa hẹn, với nhiều cơ hội mở ra từ sự phát triển của hạ tầng công nghệ. Sự phổ cập mạng 4G, thử nghiệm 5G, cùng tốc độ kết nối Internet ngày càng cải thiện đã tạo điều kiện thuận lợi để thúc đ y các hoạt động kinh tế số. Lực lượng lao động trẻ, năng động và nhạy bén với công nghệ, trở thành một lợi thế cạnh tranh lớn, giúp Việt Nam sẵn sàng thích nghi và dẫn đầu trong nhiều lĩnh vực đổi mới. Đặc biệt, sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ thông qua các chiến lược như “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” là nền tảng quan trọng để hướng tới một xã hội số toàn diện và hiện đại. Tuy nhiên, hành trình này cũng đối mặt với không ít thách thức. Một trong những trở ngại lớn là sự chưa đồng bộ của hạ tầng công nghệ tại các vùng nông thôn, miền núi, khiến việc tiếp cận các tiện ích số ở đây còn hạn chế. Đồng thời, việc thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao đang gây áp lực lớn khi nhu cầu về lao động kỹ thuật số tăng nhanh mà hệ thống giáo dục chưa đáp ứng kịp. Nguy cơ tấn công mạng và vi phạm dữ liệu cũng gia tăng theo sự phát triển của số hóa, đòi hỏi các giải pháp bảo mật và hệ thống pháp luật chặt chẽ. Ngoài ra, tư duy truyền thống của một bộ phận doanh nghiệp và người dân vẫn là rào cản lớn, làm chậm quá trình đổi mới và hội nhập. Để vượt qua thách thức và tận dụng tối đa cơ hội, cần sự hợp tác chặt chẽ giữa Chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng trong việc phát triển hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, và xây dựng nhận thức xã hội về tầm quan trọng của chuyển đổi số. 4. Giải pháp để thúc đẩy chuyển đổi số và xây dựng xã hội số Để đ y mạnh chuyển đổi số và xây dựng một nền kinh tế số bền vững, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp chiến lược trên nhiều lĩnh vực. Thứ nhất, việc đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng công nghệ là điều kiện tiên quyết. Chính phủ và doanh nghiệp cần tập trung phát triển mạng 5G, các trung tâm dữ liệu hiện đại, và hệ thống điện toán đámmây để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế số. Đồng thời, mở rộng kết nối Internet đến các vùng sâu, vùng xa sẽ đảm bảo tính công bằng và bao trùm trong việc tiếp cận công nghệ, góp phần giảm thiểu khoảng cách số giữa các khu vực. Thứ hai, nâng cao kỹ năng số cho người dân là yếu tố quan trọng. Hệ thống giáo dục cần tích hợp các chương trình đào tạo về công nghệ thông tin, lập trình, và quản lý dữ liệu từ bậc phổ thông đến đại học. Đối với lực lượng lao động, cần tổ chức các khóa học ngắn hạn và chương trình đào tạo nâng cao để giúp họ thích nghi với những thay đổi nhanh chóng của thị trường lao động kỹ thuật số. Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế là bước đi chiến lược để Việt Nam học hỏi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ tiên tiến, và thu hút đầu tư nước ngoài. Chính phủ nên tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp số và startup thông qua các chính sách ưu đãi như giảm thuế, hỗ trợ tài chính, và cung cấp không gian thử nghiệm công nghệ. Thứ tư, đảm bảo an ninh mạng là nền tảng quan trọng để thúc đ y niềm tin trong xã hội số. Việc xây dựng một hệ thống pháp luật chặt chẽ về bảo mật thông tin và nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ dữ liệu cá nhân sẽ góp phần tạo ramột môi trường số an toàn và bền vững. Chuyển đổi số và xã hội số không chỉ là một xu hướng mà còn là một yếu tố quyết định tương lai củaViệt Nam.Với những bước đi chiến lược và sự chung tay của chính phủ, doanh nghiệp và người dân, Việt Namcó thể tận dụng các cơ hội để vươn lên trở thành một quốc gia số hiện đại. Tuy nhiên, để đạt được điều này, cần vượt qua các thách thức về hạ tầng, nhân lực, và nhận thức xãhội. Hành trìnhxâydựngxãhội số làmột quá trình lâu dài, nhưng với sự quyết tâm và chiến lược phù hợp, tương lai của Việt Nam sẽ đầy hứa hẹn.n - Tương lai của Việt Nam Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính; nhà khoa học là nhân tố then chốt; Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. N G A Y N A Y . V N 11 Xuân 2025

Trước xu thế toàn cầu về chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo (AI), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấnmạnh tại phiên họp ngày 14/12/2024 tại phiên họp thứ nhất Ban chỉ đạo quốc gia về phát triển ngành công nghiệp bán dẫn: Trí tuệ nhân tạo của Việt Nam phải dựa trên cơ sởdữ liệu của Việt Nam. Đây không chỉ là chỉ đạomang tính chiến lược, mà còn là kim chỉ nam cho việc xây dựng nền tảng phát triển công nghệ số trong nước. Với việc ký kết hợp tác thành lập hai trung tâm AI với tập đoàn tầm cỡ thế giới Nvidia tháng 12/2024, Việt Nam đang tận dụng cơ hội để trở thành trung tâmnghiên cứu và phát triển AI, mở ra hướng đi mới cho ngành công nghệ cao. Một trong năm mục tiêu đến năm 2030 mà Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia chỉ rõ là: Hạ tầng côngnghệ số tiên tiến, hiện đại, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng ngang tầm các nước tiên tiến; từng bước làm chủ một số công nghệ chiến lược, công nghệ số như: Trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn, điện toán đámmây, chuỗi khối, bán dẫn, công nghệ lượng tử, nano, thông tin di động 5G, 6G, thông tin vệ tinh và một số công nghệ mới nổi. Phủ sóng 5G toàn quốc... Hơn một trợ lý ảo đơn thuần cho cá nhân, AI còn là công cụ đột phá để hỗ trợ hoạch định chính sách. Trong bối cảnh kinh tế - xãhội không ngừng phát triển, việc ứng dụng AI vào dự báo và phân tích chính sách kinh tế - xã hội không chỉ giúp đánh giá chính xác hơn các xu hướng mà còn tăng cường hiệu quả trong quản lý và điều hành, là bước tiến quan trọng để Việt Nam không chỉ bắt kịp mà còn vươn lên phía trước trong kỷ nguyên mới, kết hợp sức mạnh công nghệ với thực tiễn điều hành quốc gia. Trợ thủ vạn năng Trong báo cáo giữa năm 2024 của ngân hàng lâu đời J.P. Morgan của Mỹ, ba ngành chịu tác động lớn nhất từ AI là Tài chính, Y tế và Năng lượng, Côngnghiệp. Điểmchung của các ngành này là nền tảng dữ liệu khổng lồ, đòi hỏi nhiều thời gian tổng hợp, sàng lọc và sự chính xác gần như tuyệt đối. Nếu sử dụng sức người, đó có thể làmột công việc tiêu tốn thời gian tính bằng năm. tháng, quý, năm hay thậm chí dài hơn... với độ chính xác cao. AI còn có thể giúp các dự báo lạm phát thông qua việc phân tích các yếu tố quan trọng như giá cả hàng hóa, chính sách tiền tệ, cung cầu tiền tệ, biến động tỷ giá, thậm chí cả tâm lý thị trường. Việc phân tích số liệu khách quan, không cảm tính cũng giúp AI có cái nhìn công tâm, không thiên kiến khi đưa ra cảnh báo rủi ro, qua đó hạn chế những sự việc đáng tiếc. Tuy nhiên, AI lại xuất hiện như một chiếc chìa khoá giải bài toán nhân lực và chi phí, với khả năng xử lý “big data” (dữ liệu lớn) siêu việt. Các cơ quan điều hành kinh tế hoàn toàn có thể sử dụngAI hỗ trợnhưnhiềuquốc gia đã và đang làm. Trong lĩnh vực dự báo kinh tế, AI có khả năng phân tích một lượng lớn dữ liệu vĩ mô như lạmphát, lãi suất, tỷ giá hối đoái, đầu tư, tiêu dùng... từ nhiều nguồn khác nhau. Đặc biệt, AI còn xử lý hiệu quả các dữ liệu phi cấu trúc như tin tức, báo cáo thị trường, hoặc thậm chí là phản ứng trênmạngxãhội.... nhằmcung cấp các dự báo tăng trưởng GDP chính xác hơn so với các phương pháp truyền thống. Các mô hình “Deep Learning” (Học sâu) có thể được huấn luyện dựa trên dữ liệu kinh tế lịch sử của Việt Nam và các quốc gia có điều kiện tương đồng, từ đó đưa ra dự báo GDP theo các khung thời gian Hơn một trợ lý ảo đơn thuần cho cá nhân, AI còn là công cụ đột phá để hỗ trợ hoạch định chính sách. AI - Trợ thủ đắc lực của THỊNH JOEY AI vượt trội trongkhảnăng xử lý lượngdữ liệukhổng lồ trong thời gian tối ưu. Trung tâmDữ liệuQuốc gia sẽ được xây dựng theoquy chuẩn quốc tế. N G A Y N A Y . V N 12

Với lĩnh vực thương mại quốc tế, ngành công thương cũng có thể sở hữu một trợ thủ đắc lực giúp dự báo nhu cầu, tốc độ tăng trưởng thị trường giao thương, qua đó chủ động đưa ra các phương án xử lý hoặc các đề án phát triển thị trường. Trong lĩnh vực an sinh xã hội, AI cho phép mô phỏng tác động của các chính sách thuế, trợ cấp, giáo dục và y tế... lên nhiều nhóm dân cư khác nhau. Điều này giúp Chính phủ đánh giá hiệu quả chính sách một cách toàn diện và có cơ sở hơn để điều chỉnh phù hợp. Chẳng hạn, AI có thể phân tích tác động của việc tăng thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập, chi tiêu và mức sống của các hộ gia đình ở các mức thu nhập khác nhau, cung cấpmột bức tranh chi tiết và chính xác hơn cho các cấp quản lý. Thị trường lao động cũng là một lĩnh vực được hưởng lợi đáng kể từ AI. Với khả năng phân tích dữ liệu về cung cầu laođộng, tỷ lệ thất nghiệp, thu nhập và trình độ học vấn..., AI có thể dự báo xu hướng thị trườngviệc làm.Ví dụ, sửdụng AI đểphântíchdữ liệukhảosát lao động việc làmhàng quý sẽ hỗ trợ dự báo nhu cầu nhân lực trong các ngành nghề, từ đó giúp đưa ra các chính sách việc làm sát với thực tế, hạn chế sự mất cân bằng trong thị trường lao động. Bằng cách tích hợp nhiều nguồn dữ liệu vàmô hình hóa các mối quan hệ phức tạp, AI trở thành công cụ đắc lực hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách đưa ra các quyết định kịp thời và hiệu quả. Tuy nhiên, từ ý tưởng tới hiện thực vẫn là một con đường dài và không hề được trải hoa hồng. Vượt ngàn chông gai Những tiện ích của việc áp dụng AI cho việc đọc, phân tích dữ liệu và đưa ra dự báo là rất rõ ràng. Tuy nhiên, để biến những tiềm năng đó thành hiện thực đòi hỏi một chiến lược toàn diện và bài bản. Vấn đề đầu tiên nằm ở cơ sở dữ liệu, khi không phải cơ quan nào cũng đẩy mạnh hoạt động số hoá dữ liệu nội bộ và lưu trữ thông tin đúng quy chuẩn, đặc biệt là dữ liệu phi cấu trúc. Bên cạnh sự thiếu đồng bộ và khó khăn trong chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, các vấn đề bảo mật và quyền riêng tư trong thu thập, lưu trữ, sử dụng dữ liệu cá nhân cần được chú trọng. Thủ tướng Phạm Minh Chính đã ban hành Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 4/9/2024 về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 175/NQ-CP của Chính phủ phê duyệt Đề án Trung tâm dữ liệu quốc gia. Trước đó, vào ngày 30/10/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 175/NQ-CP phê duyệt “Đề án Trung tâm Dữ liệu Quốc gia”, nơi dự kiến đóng vai trò trung tâm dữ liệu do Chính phủ xây dựng, quản lý, khai thác và vận hành; tích hợp, đồng bộ, lưu trữ, chia sẻ, phân tích, khai thác, điều phối dữ liệu của các cơ quan Nhà nước theo quy định của pháp luật nhằm hình thành kho dữ liệu tổng hợp từ các cơ sở dữ liệu Quốc gia. Dữ liệu tại Trung tâm Dữ liệu Quốc gia là “nền tảng cốt lõi cung cấp các dịch vụ liên quan đến dữ liệu, hỗ trợ Xã hội số, Kinh tế số hoạch định chính sách, xây dựng Chính phủ số, xã hội số và kinh tế số, cung cấp hạ tầng công nghệ thông tin cho các tổ chức chính trị - xã hội, các hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia và các cơ quan có nhu cầu sử dụng để khai thác, vận hành, nâng cao hiệu quả, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin”. Tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm như: Hoàn thiện hành lang Pháp lý về dữ liệu; Di chuyển hạ tầng, bảo đảm dữ liệu, nghiệp vụ tại Trung tâm Dữ liệu; Bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin... là những công việc không hề dễ dàng nhưng là cách tiếp cận bài bản không chỉ giúp tối ưu hóa các quy trình hiện tại mà còn đặt nền móng vững chắc cho một nền hành chính hiện đại. Để có thể đạt được mục tiêu này, cần sự hợp tác chặt chẽ giữa Chính phủ, doanh nghiệp, các cơ quan nghiên cứu và cả sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế, qua đó nâng cao chất lượng hoạch định chính sách, tối ưu hóa nguồn lực, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, đưa Việt Nam tiến nhanh trên con đường phát triển của kỷ nguyên vươnmình.n Nềnkinh tế sẽphát triểnnăngđộnghơnnhờAI. Dữ liệu tại Trung tâmDữ liệuQuốcgia là “nền tảngcốt lõi cungcấpcácdịchvụ liên quanđếndữ liệu, hỗ trợhoạchđịnhchính sách, xâydựngChínhphủ số, xãhội sốvà kinh tế số, cungcấphạ tầngcôngnghệ thông tinchocác tổchức chính trị - xãhội, cáchệ thốngcơ sởdữ liệuquốcgiavà các cơquancónhucầu sửdụngđểkhai thác, vậnhành, nângcaohiệuquả, bảođảman ninh, an toàn thông tin”. N G A Y N A Y . V N 13 Xuân 2025

RkJQdWJsaXNoZXIy MTA3Mzg1MA==