Cảmột đời saymêvăn chương, tướngSoát chiêm nghiệmra rằng, với riêng người lính, điềuquýgiá nhất củavănchương làgiúp họnhìn thấyđược vẻđẹp trongchiến tranh. Vẻđẹpấy khônggì khác chính là tình yêuTổquốc, yêuđồngbào, yêuđồngđội vàyêucuộc sốnghòabình. chuyện, nghe rõ tiếng dòng thời gian chầm chậm chảy qua. Cả một đời say mê văn chương, tướng Soát chiêm nghiệm ra rằng, với riêng người lính, điều quý giá nhất của văn chương là giúp họ nhìn thấy được vẻ đẹp trong chiến tranh. Vẻ đẹp ấy không gì khác chính là tình yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, yêu đồng đội và yêu cuộc sống hòa bình. Đó là lúc ông được đồng đội hái tặng một bó hoa tươi thắm ngay sau khi bắn rơi một chiếc F-4 trong ngày sinh nhật. Hoa mẫu đơn màu đỏ, hoa mua màu tím và hoa sen màu trắng hồng, vừa mừng chiến thắng, vừa mừng sinh nhật. Giản dị mà chân thành. Chứng kiến khoảnh khắc ấy, nhà văn quân đội Hữu Mai đã phải thốt lên rằng: “Còn hình về đời phi công của mình. Có lẽ anh không ngờ rằng hơn nửa thế kỷ sau, những dòng suy tưởng ấy đã được ghép lại cuốn sách “Nhật ký phi công tiêm kích”, chiếm được cảm tình của đông đảo bạn đọc bởi những trang viết thấm đẫmvăn chương. “Ở đây mnh đã lớn lên trong hương lúa mùa ng t thơm, hươngc mngậyvị đồng quê. Ở đây, c i ước mơ bay lên đã nảy sinh trong mnh như chồi lộc đ n nhờ mùa xuân. Bay đi, mnh lại hướng về nơi ấyvớimột t nhyêudàodạt, say đắm. Ôi quê hương! Bao giờ ta lại đượcvềbênNgười nhưngày nào của thời niên thi u, được tắm mnh trong hương lúa mùa ngào ngạt và ti ng của người mẹ già sớm chiều lặn lội vất vả như một c nh cò trắng thanh nhã của Người?” (Trích “Nhật ký phi công tiêm kích – NguyễnĐức Soát). Sống như hoa mùa Hạ, chết như lá mùa Thu Mùa đông năm 2022, ph Trần Nguyên Đ n, phường Định Công, quận Hoàng Mai, HàNội. Hôm nay, tướng Soát hơi khác so với mọi ngày. Giọng ôngnặng trĩusuy tư, sâu thăm thẳmnhư vọng về từquá khứ. Ánh mắt nhiều khi dừng ở một điểm vô định rất lâu, như thể đang tua lại thước phim về cuộc đời mình để chọn ra những phân cảnh đáng giá nhất. Ông giống một người thầy giáo khả kính đang ôn tồn kể lại những ký ức xưa cho lớphậu sinh.Trongcănphòng nơi tôi và tướng Soát đang trò Pokryshkin, người đã bắn rơi tới 59 máy bay địch trong Chiến tranh Vệ quốc, ba lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Do quá say mê hình tượng vĩ đại ấy, anh Soát vàngười bạn tênNguyễn Công Huy đã rủ nhau dịch cuốn hồi ký “Bầu trời chiến tranh” của Pokryshkin sang tiếng Việt. Khoảng 450 trang sách tiếng Nga, hai anh chia nhaumỗi người dịchmột nửa. Mới chỉ học tiếng Nga đúng ba tháng sau khi sang Liên Xô, nên dịch hơn 200 trang sách là một thử thách khó nhằn với anh. Ngày cầm lái, đêm cầm bút, anh Soát và anhHuymàymògầnhai năm trời mới hoàn thành tác phẩm dịch đầu tay. Hơn 700 ngày ấy, không hôm nào hai người ngủ được quá năm tiếng. Nhưng thành quả đạt được làmcác anh tự hào vô cùng. Thật bất ngờ, một số nhà văn đã đánh giá cao bản dịch “Bầu trời chiến tranh” của hai anh Soát, Huy và động viên các anh hãy sớm xuất bản. Ngay cả anh hùng Liên Xô Alexander Pokryshkin khi gặp AHLLVTND Việt Nam Nguyễn Đức Soát tại Berlin năm 1973 cũng dặn dò rằng, khi nào quyết định xuất bản thì báo với ông để ông viết lời tựa. Bản dịch đó sau này đã bán được gần 30.000 bản, con số không tồi chút nào, cóđiềuđã bị người khác lấy in và đứng tên. Cũng trong khoảng thời gian ở trường Không quân Krasnodar, thanh niên Nguyễn Đức Soát đã viết những trang nhật ký đầu tiên ảnh nào điển hình hơn về tinh thần lạc quan cách mạng và tình yêu cuộc sống của người phi công giữa những ngày chiến đấu rực lửa như thế này nữa?”. Đó là một buổi chiều tại sân bay Đa Phúc, khi ông tình cờ nghe thấy tiếng trẻ con hát từ một ngôi làng dưới chân đồi. Thanh âm trong trẻo ấy đã thổi bùng ngọn lửa yêu nước, khiến ông hạ quyết tâm, “phải chi n đấu sao cho những giọng trẻ thơ ấy vang mãi giữa bầu trời yên b nh!” (Trích “Nhật ký phi công tiêm kích – NguyễnĐức Soát). Và đó là đêm 18/12/1972, khi Mỹ bắt đầu chiến dịch Linebacker II với tham vọng “đưa Hà Nội trở về thời kỳ đồ đá”. Hôm ấy, ông Soát đã không được xuất kích cùng đồng đội. Nghe tiếng bom B-52 nổ rền trời Hà Nội, ông đã viết những dòng căm phẫn cực độ vào nhật ký: “Đêm nay, bao nhiêu đồng bào mình hy sinh vì bom đạn giặc Mỹ? Nằm đây mà lòng nôn nao, bứt rứt. Ôi, giá mình không biết bay còn đỡ. Sao trước đây mình không xin bay đêm để bây giờ được đánh!... Tổ quốc thân yêu ơi! Chúng con nguyện chiến đấu suốt đời vì Tự do, Độc lập!” Chính tình yêu ấy đã truyền lửa để những người lính không quân luôn sẵn sàng chiến đấu và hy sinh, dù cho kẻ thù có mạnh hơn họ rất nhiều. Ông Soát và các đồng đội coi cái chết nhẹ bẫng như không, như hai câu thơ mà ông nhớ đến tận bây giờ: “Coi c i ch t n u r nh / Với hồnm nh gần gụi” (A.Puskin) “Văn chương đã khiến lòng yêu nước, yêu đồng bào, yêu hòa bình ngấm sâu vào máu người phi công, đưa chúng tôi vượt lên khỏi những suy nghĩ ích kỷ cho riêng bản thân. Ai cũng khao khát sống một cuộc đời đẹp, để nếu hy sinh sẽ không còn gì phải tiếc nuối. Như nhà thơ Ấn Độ R. Tagore đã nói: “Hãy để cuộc đời đẹp như hoa mùa Hạ, và cái chết đẹp như lá mùa Thu.”n Phi côngNguyễnĐức Soát cùngnhữngngười đồngđội tại Trungđoàn921 (Ảnh tư liệu). Phi côngNguyễnĐức Soát giao lưu cùng các cháu thiếunhi tỉnhHàTây (cũ). (Ảnh tư liệu). Vợ chồngphi côngNguyễn Đức Soát chụp tại nhà riêng. (Ảnh tư liệu). N G A Y N A Y . V N 35 KẾTNỐI
RkJQdWJsaXNoZXIy MTA3Mzg1MA==