Ngày Nay số đặc biệt Tết Quý Mão

chẳng hề thấy con cua ở đâu cả, thì ra, âm OI, với người Quảng Nam đã biến thành UA. “Đời cua cua máy đời cáy cáy đào” là đời nào lo cho đời đó, mỗi người tự lấy số phận, cuộc sống của chính mình, chẳng khác gì “Đời cha cha lo, đời con con liệu”. Nhưng “cua” còn hàm nghĩa…tán tỉnh, chẳng hạn, một người nhận xét: “Chà, hôm nay hắn ta ăn mặc bảnh tỏn ghê ta. Cái đầu thoa dầu láng mướt, áo ủi thẳng thớm lại bỏ vào thụng, chắc đi cua gái chứ gì?”. Thì “cua” trong ngữ cảnh này chính là “o/ o mèo”. Ruộng gò cấy lúa Nàng Co Thương anh thì thương đại, đừng để anh gòmất công Ruộng gò tức ruộng ở cuộc đất cao, còn gọi ruộng cao. Mà gò ở câu tám, còn hiểu là cua - nhằm chỉ hành động tán tỉnh, dỗ dành, ve vãn người đẹp. Tục ngữ có câu: “Gò với núi cũng kể loài cao, bể với ao cũng kể loài trũng” thì gò lại là đống đất cao nổi lên ở nơi bằng còn có từ“Liếc mèo: liếc mắt đưa tình với phụ nữ”, Từ điển phương ngữ Nam Bộ (1994) do Nguyễn Văn Ái chủ biên giải thích. Nhưng tại sao phải là mèo, chứ không phải là con gì khác? Có lẽ sở dĩ gọi mèo vì trong tâm thức người Việt đã thành kiến với loại “Mèo mả gà đồng”, “Mèo đàng chó điếm” - cũng mèo, gà, chó thân thuộc, đáng yêu nhưng lại là loại hoang đàng chi địa, trắc nết, hư hỏng. Vì thế, Hoạn Thư mới mắng mèo của chồng là Thúy Kiều: “Con này chẳng phải thiện nhân/ Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng/ Ra tuồng mèo mả gà đồng”. Từ thành kiến trên mới dẫn tới liên tưởng này, hễ cô ả nào léng phéng với chồng mình thì đích thị mèo. Giải thích này, hợp lý không? Nếu không xin cứ hỏi… con mèo, xem nó trả lời thế nào? Trong khi chờ đợi, ta hãy tiếp tục câu chuyện đang bàn, thí dụ, đứa trẻ từ Sài Gòn ra chơi Quảng Nam, lúc đi ngang Ngũ Hành Sơn, bạn chỉ tay giới thiệu: “Cua kìa, cua kìa”. Ngạc nhiên quá, nó 3. Trước hết, ta hãy bàn đến từ o. Rằng, năm 1974, tạp chí Văn Học tại miền Nam ấn hành số đặc biệt “Tô Hoài trongxãhội người nghèo”, nhàbáoPhan KimThịnh đặt vấn đề các tựa truyện của Tô Hoài là “O chuột hay ổ chuột”? Sở dĩ như thế, vì theo ông Thịnh, quyển Le roman Vietnamien contemporain của Bùi Xuân Bào in năm 1972, trang 438 đã ghi chú: “Tô Hoài: Ổ chuột (Trou de souris). Nhưng ngay trang cuối cuốn sách này, trang đính chính đã in lại như sau: “O chuột: Mademoiselle la souris”. Như vậy, tác giả không đồng ý chữ Ổ chuột lại dùng chữ O chuột hiểu theo nghĩa o là cô”. Vậy, cách giải thích nào là đúng? Xin thưa, cảhai cáchgiải thíchđều…trật. Căn cứ vào văn bản Tô Hoài ở đoạn kết, ta sẽ có cách giải thích chính xác: “cơ chừng gã mèo mướp phải dành tất cả cái hoa niên củamình đểmà chỉ luẩn quẩn đi o chuột”. Vậy, “o”ở đây là“rình”, tức“rình chuột”chứ không phải cô chuột, ả chuột, bà chuột, thím chuột nào cả. Xét ra, từ o trong O chuột đã rõ ràng, không cần gì thêm. Tuy nhiên, có điều tôi lấy làm ngạc nhiên vì khi tra các từ điển tiếngViệt lại không tìm thấy giải thích o theo nghĩa vừa nêu. Vậy, o này từ đâumà ra? Theo nhà nghiên cứu An Chi: “Cứ như trên thì, hiểu rộng ra và nếu liên hệ đến nghĩa của o trong o mèo, ta sẽ thấy o trong O chuột của Tô Hoài chẳng qua là o trong omèo hiểu theo nghĩa bóng, chứ không phải là một từ o nào khác. O mèo, nói một cách ngắn gọn, mà không kém phần xác thực, là lân la vegái. Còno chuột cũng chỉ là rình nấp, đi quanh đi quẩn để tìm, để lùng bắt chuột mà thôi”. Cho đến nay, chưa thấy ai có lập luận gì khác, riêng tôi đồng thuận với cách giải thích này. O mèo là tán gái. Thí dụ, vừa thấy chồng bước ra khỏi nhà, cô vợ bắt nọn: “Chà, bữa nay anh chưng diện láng cóng, ăn mặc bảnh tỏn chắc đi o mèo à?”. O là o bế, đeo đuổi tán tỉnh, chiều chuộng. Người chồng đáp: “Em tào tháo ghê. Anh đi thăm sếp”, ý muốn nói cô vợ đa nghi quá, chàng tađi côngviệc chínhđángchứ nào phải đi gạ gẫm, thả thính, tán tỉnh cô nào đâu. Ca daoNamBộ có câu: Bamá bày đặt cho anh Áo bà ba may hai cái túi đựng dầu chanh omèo Dù vẫn biết “mèo/ o mèo” là từ bông phèn nhằm ám chỉ nhơn tình nhơn ngãi của chồng kiểu như Hoạn Thư đánh giá vai trò củaThúy Kiều lúc lang chạ với Thúc Sinh. Không những thế, người miền Nam phẳng. Gò cương ngựa tức trì/ co/ kéo lại dây cương đặng cầm chân ngựa. Mà gò cũng là gọt dũa, năn nót cẩn thận từng chút một, chẳng hạn một người nhận xét: “Cậu ấy khi viết thư tình cho mèo là gò từng chữ”. Ngoài câu ca dao trên, “gò”được hiểu theo nghĩa tán tỉnh, ve vãn, vậy, còn từ gì nữa? Ruộng gò cấy lúa Ba Xe Thấy em còn nhỏ anh ve để dành Sự dí dỏm, tinh nghịch gói gọn trong từ “để dành” rất ư láu cá. Ve cũng hàm nghĩa như o, gò, cua. Đi vào phương Nam nghĩa tình nắng ấm, ai lại không nhớ đến câu hát huê tình bay bướm: Bắp non mà nướng lửa lò Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm Nhưng ve cũng là be, chai, lọ dùng để đựng chất lỏng: Cô về chợ Thủ bán hũ bán ve Bán bộ đồ chè, bán cối đâm tiêu Ve và chai một khi đi chung khắng khít, trở thành“ve chai”thì lại làm nghĩa thu mua đồ cũ, lặt vặt, đã cũ, đã hỏng, hằm bà lằn xắn cấu, chứ không chỉ ve, chai. Còn có từ cùng nghĩa là đồng nát: Đồng nát thì về cầu Nôm Con gái nỏ mồm về ở với cha Ngoài các từ o, gò, cua, ve chỉ cái sự tán tỉnh người đẹp còn có thể kể thêm từ gì nữa? Trong truyện dài Như thiên đường lạnh (NXB Hội Nhà văn tái bản 2017), nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ viết: “Lủy tính chim con em bà con của em đó” (tr.84). Hoặc trong kiệt tác Số đỏ, cha đẻ của Xuân Tóc đỏ viết:“Thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma”. Chim là tiếng lóng cũng nhằm chỉ tán tỉnh, gạ gẫm. Này bạn, nếu cô nàng vẫn phòng không bóng chiếc, vẫn “lính phòng không”? Thì mình cứ tiếp tục gò, cua, o, ve, chim… chứ nào sợ gì. Chỉ sợ là sợ, một khi mình đã yên bề gia thất, đã đi thưa về trình, đã “gấu mẹ vĩ đại” lù lù đứng sau lưng, đã “Vợ gọi thì “Dạ, bẩm bà tôi đây” ắt chớ hòng “thả thính”; chớ hòng đuổi bướm bắt chim như thời trai trẻ đơn thân độc mã; chớ hòng khi vui giỡn bóng, khi buồn giỡn trăng... Nghĩ thế, không ít bậc hiền nhân quân tử “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” ngậm ngùi nhớ lại thuở vàng son rực rỡ vẫn độc thân bèn thở ngắn than dài, ngửa mặt lên trời gào một câu thảm thiết vang dội rúng động bốn phương: “Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu”. Tội nghiệp chửa?n Tranhminhhọabài viết này đượcTạp chí NgàyNay thực hiện bằng côngnghệTrí tuệnhân tạo (AI) N G A Y N A Y . V N 79 KHÁMPHÁ

RkJQdWJsaXNoZXIy MTA3Mzg1MA==