SỐ320 (6 - 13/4/2023) TẠPCHÍ W W W . N G AY N AY. V N MIỄN PHÍ VietnamToday Văn hóa Hà Nội như một dòng chảy ngầm bền bỉ TRANG 2 - 3 TRANG 10 - 11 TRANG 12 - 13 Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Hà Nội, thành phố sáng tạo của UNESCO Văn hóa Thủ đô nhìn từ vỉa hè, lòng đường PhốPhanĐìnhPhùng , HàNội. Ảnh: Xuân Chính
- Có một điều cốt lõi bất biến của người Hà Nội đó là giá trị đạo đức phổ quát như “đi chào về hỏi”, ăn cơm thì mời ông bà chamẹ, ra đường chào người lớn tuổi. Dù vậy, nó chỉ biến đổi để phù hợp với cuộc sống hiện đại. VănhóaHàNội vốnhội tụ, kết tinh, lan tỏa. Một người từ vùng miền khác tới sống tại Hà Nội, vẫn phải có sự “nhập gia tùy tục”hay còn gọi là“Hà Nội hóa”. Nhiều người mang theo những lề thói, quan niệm của vùng miền mình và áp dụng nó trong cuộc sống tại đây. Nhưng chúng ta không thể duy trì thói quen sinh hoạt của vùng nông thôn, sông nước, núi rừng, biển đảo vào nếp sống của một đô thị như Hà Nội. Phải thú thực là có thể một vài nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa đã dành cho văn hóaHàNội nhiềumỹ từ. Có cả những nét đẹp và chưa đẹp trong Hà Nội nhưng nhiều người đã hiểu lầmnhững nét đẹp đơn lẻ thành những giá trị phổ quát. Dẫu vậy, một Hà Nội “tao nhân, mặc khách” là có thực Một Hà Nội “tao nhân, mặc khách” vẫn hiện diện HàNội ngày càngmở rộng thêm nhiều vành đai, dung nạp thêm nhiều luồng văn hóa của các vùng miền xung quanh. Liệu sự mở rộng địa hạt, cùng với những luồng di dân sẽ tạo ra sự giao thoa như thế nào giữa văn hóa của Hà Nội và các vùngmới? - Đúng là văn hóa lõi của Hà Nội sẽ chịu ảnh hưởng phần nào của những luồng gió mới hay sự biến đổi của xã hội nhưng khó có thể bị thay đổi hoàn toàn. Xu hướng đô thị hóa có thể làm thay đổi diện mạo củamột khu vực khi được sáp nhập vào Hà Nội, hoặc lên quận. Dù đã là phố, phường nhưng bản chất vẫn là làng, xã. Tại nơi đây vẫn lưu dấu những phong tục, nề nếp riêng của cộng đồng dân cư gốc. Nói một cách chính xác, thì không thể đô thị hóa hay “Hà Nội hóa” hoàn toàn những vùngmới sáp nhập. Về cơ bản, văn hóa Bắc Bộ vẫn có nhiều nét tương đồng. Hà Nội, mà cụ thể là khu vực nội đô, tồn tại nhữngnét riêng mang đặc trưng phố thị, bởi nơi đây từ lâu đời đã là một vùng tập trung buôn bán, sản xuất nên có những đặc điểm khác với vùng nông nghiệp. Hà Nội có rất nhiều vùng ven đô, khi có chính sách quy hoạch làng, xã lên phố, quận thì chỉ tên gọi thay đổi, còn những đặc trưng văn hóa vẫn được bảo lưu. Nhưng từ khi đất ruộng biến thành nhà cao tầng, chung cư thì đã có sự giao thoa văn hóa giữa những người tứ xử đổ về với cộng đồng dân gốc tại đó. Những lớp người di cư tới sẽ sống theo “văn hóa chung cư”, trong khi những người dân địa phương vẫn sẽ sống theo những lề lối xưa và chỉ phần nào chịu sự biến đổi của văn hóa nội đô. Sự giao thoa này không đem đến xung đột, mà cả hai sẽ nhắm đến một cái đích chung, đó là tiếp thu, dung nạp văn hóa đô thị. Người ta có câu “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An” để nói về người Hà Nội. Vậy theo ông, hình ảnh “hoa nhài” có còn phù hợp với người Hà Nội hiện đại hay không? mất. Nếu muốn thấy sự thay đổi trong văn hóa của Hà Nội thì chỉ cần nhìn vào cách ăn, mặc. Ngày trước, già trẻ đều mặc màu xám tối, ngày nay quần áo đa dạng màu sắc, mẫumã hơn. Ngày xưa người Hà Nội mùa đôngmặc áomớ bảy, mỗi lớp áo là một màu khác nhau. Hay như chuyện ăn uống, đời sống hiện đại cũng kéo theo sự biến mất của nhiều món ăn Hà Nội. Có thể nhiều người biết bánh cuốn Thanh Trì, mà quên làng Yên Hòa cũng nổi tiếng với món ăn này. Hay bún ốc Hà Nội thì có hai nơi nổi tiếng là bún ốc nguội Khương Thượng và bún ốc nóng Pháp Vân, nhưng nay cũng không còn. Chúng ta vẫn thường bàn luận về khái niệm “người Hà Nội”, ông cùng với nhiều nhà văn khác đã cung cấp cho công chúng những mảnh ghép tạo nên khái niệm này. Nhưng liệu “người Hà Nội” là một khái niệm tĩnh hay nó đã có những sự biến chuyển, xoay vần theo thời cuộc? - Hình ảnh“hoa nhài”dẫu sao cũng chỉ là cách người xưa ví von, chứ không thực sự đại diện cho bản sắc của người dân thành phố này. Văn hóa dù mang tính hằng số nhưng vẫn biến động mỗi ngày. Sự biến đổi này chịu tác động bởi thời cuộc. Dẫu vậy, trong mỗi tâm thức của người Việt đều có một “mã gen” văn hóa di truyền suốt nhiều đời. “Mã gen”này được thể hiện ở nếp sống gia đình, được quy định trong hương ước của làng và luật pháp của xã hội, đặc biệt là vẫn được truyền lại cho tới nay. Vì thế, nói rằng văn hóa ngày nay khác ngày xưa không hẳn đúng. Vẫn có một “dòng chảy ngầm”, dẫu không mạnh mẽ, nhưng bền bỉ tồn tại trong tâm thức người Việt. Những thói quen ứng xử, ăn uống, lễ nghi của người Việt bao đời vẫn vậy, và chỉ thay đổi một chút cho phù hợp với thời cuộc. Nhiều người lo ngại rằng cuộc sống hiện đại sẽ tẩy xóa nền tảng văn hóa, đạo đức cốt lõi, mà không hiểu rằng “dòng chảy” này rất khó biến Làn sóng đô thị hóa đã lột bỏ nhiều lớp trầm tích văn hóa của Hà Nội, khi nhiều làng ven đô đã thành phường phố. Là một người con “nặng lòng” với Hà Nội, nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến đã có cuộc trò chuyện với Tạp chí Ngày Nay về sự biến chuyển trong văn hóa của mảnh đất nghìn năm văn hiến. NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC TIẾN: Văn hóa Hà Nội như một HUY VŨ - NGUYỆT LINH Nhàvăn NguyễnNgọcTiến. NGAYNAY.VN 2 CHUYÊNĐỀ Số320 - ThứNăm, ngày6/4/2023
NhàvănNguyễnNgọc Tiến làmột trongnhững tácgiả chuyênviết vềHàNội. Bêncạnhnhữngcuốnsáchkhảo cứunhư“5678bước chânquanhHồGươm”, “Đi dọcHà Nội”, “Đi ngangHàNội”, “Đi xuyênHàNội”, nhữngcuốn sáchkhác củaôngnhư: “Mongmanh”, “MeTưHồng”, “LínhHà”…đã tạodựngnênnhữngmảnhghép rất đẹp vềmộtHàNội xưacũ. dòng chảy ngầm bền bỉ Phần lớndukhách tới KhuDi tích Lịch sửNhàTùHỏa Lò là các bạn trẻ. và không chỉ các nhà nghiên cứu Việt Nam công nhận, mà nó còn được ghi chép trong nhiều sách vở của phương Tây. Có cuốn sách xuất bản từ thế kỷ 18 mô tả cách giao tiếp của người Hà Nội thời kỳ đó. Ví dụ, một người Hà Nội khi hỏi han bạn mình về tình hình sức khỏe, thay vì hỏi: “Bác khỏe hay yếu”, thì chỉ hỏi rằng: “Dạo này bác ăn được mấy bát cơm?”. Đó là một lối ứng xử rất tế vi, nhã nhặn của người Hà Nội mà ngày nay không còn nhiều. “Làng lên phố”, cần giáo dục lớp trẻ tình yêu với văn hóa Được biết, ông đang viết sách khảo cứu các làng ven đô. Việc trực tiếp quan sát ảnh hưởng làn sóng đô thị hóa lên các làng quê Hà Nội đã cho ông những trải nghiệmgì? - Phải nói rằng các ngôi làng như Phú Đô, Xuân La, Xuân Đỉnh, Yên Thái ngày nay khi chuyển đổi lên phố rất thảm thương bởi thiếu sự chuẩn bị về mặt hạ tầng. lớp người đến và đi. Vậy theo ông, những cuộc biến động này đã có ảnh hưởng thế nào tới bản sắc của người HàNội? - Văn hóa bao giờ cũng có một sự thay đổi trên bề mặt, còn căn tính của một quốc gia, một dân tộc, hay một địa phương thì không suy chuyển dựa trên nền tảng đạo đức. Xã hội Hà Nội từ năm 1945 tới nay luôn có sự biến động với nhiều làn sóng nhập cư và di cư. Nhưng dù nhanh hay chậm, thì những lớp người mới đến cũng sẽ tự mình thay đổi, dỡ bỏ những quan niệm “thâm căn cố đế” của quê hương để khoác lên mình những “lớp lang” văn hóa Hà Nội. Nói rộnghơnvềxuhướng hội nhập, có thể nói HàNội và Việt Nam vốn đã mở cửa và hội nhập ngay từ thế kỷ 17, 18. Vào thời kỳ Pháp thuộc, tầng lớp tri thức đã đi du học nước ngoài và đem về nhiều làn gió văn hóamới. Cùng với sự xuất hiện của các loại hình nghệ thuật mới như kịch nói, tiểu thuyết điện ảnh, thì những hình thức diễn xướng cũ như chèo, tuồng vẫn tồn tại. Nhưng trong thời đại này, muốn những loại hình nghệ thuật truyền thống được duy trì thì cần phải giáo dục cho lớp trẻ kiến thức và tình yêu dành cho cội nguồn văn hóa dân tộc ngay từ những năm đầu đời. Hẳn ông còn nhớ, cách đây chưa lâu học sinh Hà Nội từng được dạy về nếp sống Những hàng rào cúc tần nhường chỗ cho tường bê tông, những con ngõ nhỏ giờ bị các nhà tầng che kín khoảng trời, không có vỉa hè, hệ thống chiếu sáng - thoát nước chắp vá khiến các ngôi làng trở nên nhem nhuốc, ô nhiễm… Chính sự thiếu quy hoạch đồng bộ khiến các vùng ngoại ô đẹp đẽ trở nên tan hoang, nhiều người sinh ra từ làng giống tôi khi trở về cũng chi biết tiếc nuối. Nhiều người bàn luận về vấn đề “làng lên phố” mà quên mất Hà Nội còn có một vùngđất hết sức thơmộngvà nhiều trầm tích văn hóa độc đáo, đó là Ba Vì, nhưng lại rất ít người biết. Tại sao người ta lại gọi là Ba Vì thay vì Tam Vì, tại sao cộng đồng người Dao tại đây được gọi là Mán sơn đầu, hay vì sao người Mường ném củ ráy trộn đất trong lễ cưới? Nếu muốn hiểu rõ hơn về mảnh đất và con người Hà Nội, chúng ta cầnphải có tình yêu với văn hóa. Là thành phố ngàn tuổi, Hà Nội đã chứng kiến nhiều cuộc biến động dân cư theo thời cuộc, kéo theo đó là sự biến đổi về đặc trưng của từng thanh lịch văn minh. Theo ông, những chương trình giảngdạy này đã tác động thế nào tới văn hóa của người trẻ HàNội? - Kể cả ở hiện tại, học sinh cũng được giảng dạy bộ môn“Giáo dục công dân”. Dù vậy, muốn dạy cho lớp trẻ về những ứng xử văn hóa, văn minh thì cần phải giáo dục theo mô hình “kiềng ba chân”. Trong đó nhà trường dạy kiến thức, gia đình dạy vănhóa, xãhội dạypháp luật. Muốn thay đổi nhận thức một người thì cần hai thứ: luật pháp và ý thức. Muốn một đứa trẻ có ý thức thì phải có sự uốn nắn trong gia đình, còn khi ra ngoài xã hội, luật pháp sẽ giúp đứa trẻ hiểu rõ vì sao phải tuân thủ luật giao thông, vì sao không được vứt rác bừa bãi, vì sao thấy của rơi phải trả lại người mất. Việc giảng dạy nếp sống văn mình trên nhà trường là ý tưởng tốt, nhưng khó tạo ra hiệu quả, bởi học sinh còn có quá nhiều kiến thức phải dung nạp trên lớp. Cách giáo dục văn hóa tốt nhất là ở trong gia đình, vốn là căn cốt cho nền tảng đạo đức của một đứa trẻ. Chỉ khi kết hợp nghiêm túc cả ba chân kiềng, thì một đứa trẻ sẽ lớn lên tự nhiên và ít có xu hướng thực hiện những hành vi phản văn hóa, đạo đức.n NGAYNAY.VN 3 CHUYÊNĐỀ Số320 - ThứNăm, ngày6/4/2023
Ký ức về những bãi bồi Ngồi trongcănnhàcótầm nhìn hướng ra cầu Long Biên, cây cầu ghi dấu nhiều thăng trầm của Thủ đô lịch sử, chị Khánh Hòa (Phúc Tân, Hà Nội) trải lòng về những ngày đầu cùng gia đình dọn về sống ở nơi đây. Với số vốn khiêm tốn gom góp sau khi kết hôn, vợ chồng chị lựa chọn mua một căn nhà ngay dưới chân cầu, xây dựng tổ ấm trên bãi Phúc Tân. Trong ký ức của chị Hòa, lúc đó Phúc Tân, Phúc Xá nổi tiếng là “khu ổ chuột”. Nhà cửa, dân cư vô cùng thưa thớt. Trước cửa ngôi nhà của anh chị, nơi bãi bồi tiếp giáp với dòng sông là bạt ngàn lau sậy cùng ngổn ngang các loại rác thải sinh hoạt. Tất cả như vây lấy tầm mắt, kéo tít tắp ra tới mặt sông mênh mang sóng nước. “Dọn về tôi không nghĩ ngợi nhiều vì điều kiện kinh tế chỉ cho phép mua nhà ở đây. Nhưng sang năm sau, sinh cháu trai đầu, nhìn vào khu xóm, tôi chợt lo. Mỗi sáng dỗ con ăn trước cửa, lúc thì thấy chục cái kim tiêm lúc thì rắn rết bò từ dưới sông vào, tôi tự hỏi con sẽ trưởng thành ra sao, kết bạn thế nào khi chỉ nghe tiếng dân Phúc Tân là người trong phố đã ái ngại”, chị Hòa tâm sự. Vào những năm 2003, các bãi bồi ven sông không chỉ là khu vực ô nhiễm nhức nhối mà còn phức tạp với tệ nạn nghiện hút. Tình hình mất an ninh, mùi hôi của rác với các nghiên cứu vềThủ đô cũng như sông Hồng, GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, Phó chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam chia sẻ, xuyên suốt các giai đoạn trong lịch sử, Thăng Long - Kẻ Chợ nổi lên trong dáng vóc của một đô thị nghìn năm tuổi, với sức sống chủ yếu từ nguồn lực sông Hồng. Về mặt hình thức, đô thị phát triển thiên về một bên sông, nhưng kỳ thực là đô thị mở ra sông, lấy dòng sông làm mặt tiền, làm trung tâm cho các mối giao lưu, hoạt động kinh tế - xã hội - văn hóa. Thăng Long - Kẻ Chợ là kinh đô, kinh sư, đô thị phát triển đúng như tầm nhìn và thiết kế của đại công trình sư Lý Thái Tổ. Tuy nhiên dưới thời kỳ chiếm đóng của người Pháp, họ không còn đầu tư cho hệ thống giao thông, giao thương đường thủy. Các dòng sông như sông Hồng, sông Tô, sông Kim Ngưu hầu như bị bỏ thải khiến người dân đóng kín cửa khi trời chập choạng và chỉ ra ngoài khi đã sáng bảnh. Cách nhà chị Hòa hơn một cây số, xuôi xuống phía Nam bãi Phúc Tân, trong không gian xanh mát của Công viên rừng bờ vở sông Hồng, ông Phạm Thứ (Phúc Tân, Hà Nội) say sưa kể về những lớp dân cư đã đến, sinh sống ở bãi bồi chân cầu Chương Dương. Đó là nhữngmảnh đời đa dạng, từ các kỹ sư bắc cầu phao vượt sông trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đến dân tứ xứ tới Hà Nội sống bám vào các chợ đầu mối, mang theo ước vọng về một miền đất hứa. “Gia đình tôi ở đây đã bốn thế hệ. Khi tôi còn nhỏ, sông ăn vào sát nhà. Kể từ khi có thủy điện, tốc độ bồi tụ tăng, diện tích bãi bồi mở rộng nhanh chóng. Nhưng khi đó dân cư xả thải tràn lan nên bãi sông rất ô nhiễm. Từng có thời các hộ gia đình, cụm xóm họp nhau bàn xây tường chắn lối ra sông”, ông Thứ nói. Như vậy, sự gia tăng diện tích tự nhiên, cộng thêm việc thiếu quy hoạch từ phía thành phố, chưa có cơ chế quản lý an ninh, môi trường từ chính quyền phần nào khiến những bãi bồi bên rìa thành phố mang định kiến là những khu vực hoang hóa, đầy rẫy nguy hiểm, khó tiếp cận. Điều này gián tiếp khiến nhiều thập kỷ qua, Hà Nội đã “bỏ quên” khu vực đất đai rộng lớn, giàu giá trị tiềm năng ven sông Hồng. Quay lưng vào dòng sông Gắn bó hàng chục năm Tìm hướng đi cho những không gian ven bờ sông Hồng không chỉ giúp cư dân Thủ đô tiếp nối khát vọng ngàn đời, hòa hợp và cộng sinh cùng dòng sông, mà còn thúc đẩy quá trình hiện thực hóa giấc mơ về “thành phố hai bên bờ sông Hồng”, nơi kiến tạo, mở ra trục không gian, hành lang xanh quan trọng của Hà Nội. NGUYỆT LINH CẢI TẠO VĂN HÓA VEN BỜ SÔNG HỒNG: Hiện thực hóa một Bãi bồi dưới chân cầu LongBiêndưới thời kỳ Pháp thuộc. ÔngThứvàhàng xómtập thểdục tại bãi sôngHồng. NGAYNAY.VN 4 CHUYÊNĐỀ Số320 - ThứNăm, ngày6/4/2023
Chương Dương, gây ô nhiễm môi trường nặng nề cho khu dân cư tổ 5, 6 thành không gian công cộng đa chức năng “Vườn rừng cộng đồng bờ vở sông Hồng” phục vụ người dân. Với 1.500m2 khu vui chơi dành cho trẻ em kết hợp vườn cộng đồng và con đường kết nối các hộ dân cư với không gian xanh. Vườn rừng cộng đồng bờ vở sông Hồng không chỉ góp phần cải thiện môi trường, nâng cao ý thức của người dân trong quản lý và giảm thải rác mà thực sự đã gỡ bỏ ám ảnh, nỗi lo, nối lại khát vọng cộng sinh ngàn đời của cư dân ven bờ với sông Hồng. Khép lại cuộc nói chuyện trong khônggian sôi động và xanh mướt trên Con đường nghệ thuật Phúc Tân, chị Hòa nói: “Kể từ ngày có con đường này, gia đình tôi có thêm không gian để kết nối với bà con lối xóm và tập thể dục, không cần chạy xe vào trong phố. Các cháu đã lớn cũng có chỗ chơi thể thao, tiếp bạn bè. Tròn hai mươi năm chuyển ra bãi Phúc Tân, ngôi nhà, những người hàng xóm, bãi bồi và dòng sông đã gắn bó máu thịt với gia đình chúng tôi”.n cư dân trong xóm đã có cuộc chuyển mình ngoạn mục trong năm 2020. Nhiều nguồn lực trong thành phố đã kết nối lại cùng nhau để chuyển đổi 500m đất bãi ven sông, đoạn từ cầu Long Biên đến cầu Chương Dương, thành không gian sáng tạo và đáng sống mang tên “Con đường nghệ thuật cộng đồng Phúc Tân”. Trên nền bức tường ngăn cách khu dân cư với hành lang ven sông, 16 tác phẩm nghệ thuật đến từ nhiều thế hệ họa sĩ đã kể những câu chuyện về lịch sử sông Hồng, về cuộc sống người dân ven sông và về văn hóa Hà Nội. Đáng nói, hầu hết các tác phẩm sử dụng vật liệu tái chế, thân thiện với môi trường, tạo nên những tác phẩm sống động, thân thiện. Mộtdựánkhácđược thực hiện vào năm 2022 cũng đã biến bãi đất bỏ hoang chứa 200 tấn rác và nước thải ven sông Hồng thuộc phường Đứng trước viễn cảnh về “thành phố hai bên bờ sông Hồng”, xây dựng thương hiệu mang bản sắc đô thị nghìn năm tuổi Hà Nội, chính quyền quận Hoàn Kiếm nhận định công tác xử lý rác thải ô nhiễm, trị an luôn là vấn đề bức thiết cần phải thực thi để từ đó phát triển những không gian văn hóa. Theo ông Nguyễn Anh Quân, Phó Chủ tịch thường trực UBND quận Hoàn Kiếm: “Sau khi triển khai tích cực một số dự án cải tạo bờ sông Hồng, hiện nay, một số bãi bồi thuộc phường Chương Dương đã trở thành những con đường sạch đẹp, trồng nhiều cây xanh, là không gian văn hóa đáp ứng nhu cầu cho người dân, chốn dừng chân của du khách”. Trở lại câu chuyện của chị Khánh Hòa, bãi bồi đầy lau sậy và rác thải trước cửa nhà từng một thời ám ảnh suy nghĩ của chị và nhiều cấp, người ta không mấy quan tâm đến việc khai thác nguồn lực tổng hợp của dòng sông. Điều này biến sông Hồng trở thành chướng ngại vật khổng lồ cho bước phát triển tiếp theo của đô thị Hà Nội. Dù vậy, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu, quy hoạch, kiến trúc và chính quyền đều đã nhận thức và quan tâm đến vai trò của sông Hồng trong sự phát triển và định dạng thương hiệu văn hóa của Thủ đô. Thủ tướng Chính phủ cũng phê duyệt Quy hoạch chung Xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó sông Hồng được xác định sẽ là trục cảnh quan quan trọng nhất của Thủ đô trong bố cục quy hoạch Hà Nội. Để hiện thực hóa phê duyệt trên cũng như hoàn thành các mục tiêu đúng thời hạn sẽ cần đến rất nhiều nguồn lực từ phía thành phố, các tổ chức và người dân để chỉnh trang, tái thiết khu vực bờ bãi ven sông. Tiếp nối khát vọng Hồng Hà ngỏ. Nhiều đoạn sông bị san lấp thành phố xá, những đoạn còn lại trở thành nơi xả rác, chứa các loại nước thải của nhà máy, xí nghiệp và các khu dân cư. Xuyên suốt các thời đoạn lịch sử, dòng sông Hồng vốn hung dữ được người Hà Nội đời đời kiên trì thuần dưỡng. Cho đến đầu thế kỷ XIX, Hà Nội trải qua nhiều biến đổi. Thành phố vốn cởi mở trước sự lên xuống của con nước, dần co cụm, nép mình trong đê. Các cụm dân cư, ngõ xóm tăng lên, trải rộng hai bên bờ sông với mật độ dày đặc nhưng chất lượng đô thị, môi trường lại xuống cấp trầm trọng, tạo nên những vùng dân cư dành cho lao động nghèo, điều kiện thiếu thốn. Sông Hồng từ vị trí trung tâm của ngàn đời, trong thực tế trở thành vùng bị đẩy hẳn sang bên lề của các kế hoạch phát triển đô thị. Dòng sông trở lại bản tính hung dữ, khó lường, có thể gây ra bất trắc cho cộng đồng cư dân ven sông, mất đi dáng vẻ thân thiện, hài hòa của một dòng chủ đạo trong lịch sử ngàn năm văn hiến. Thời kỳ quản lý tập trung quan liêu bao giấc mơ dang dở Học sinh chơi thể thao tạiVườn rừng cộngđồngbờ vở sôngHồng. Một phầnConđườngnghệ thuật cộngđồngPhúcTân. Khu vực bãi giữa, bãi bồi ven sôngHồng trên địa bàn quậnHoànKiếm thuộc hai phường Chương Dương và Phúc Tân. Trong đó, khu vực bãi bồi ven sông thuộc địa bàn phường Phúc Tân rộng khoảng 11,2 ha do các hộ dân canh tác trồng rau, hoamàu, chănnuôi; khu vực thuộc địa bàn phường ChươngDương diện tích 4,12 ha do tổ chức, cá nhân quản lý và sửdụng… NGAYNAY.VN 5 CHUYÊNĐỀ Số320 - ThứNăm, ngày6/4/2023
Thung lũng bình yên của ông Bình Phía cuối con ngõ nhỏ ở làng cổ Hương Ngải, Thạch Thất, Hà Nội ẩn khuất một ngôi nhà cổ, ước chừng cũng đã trên trăm năm, nép mình bên những căn nhà ống cao tầng sừng sững. Bất cứ người dân nào đi qua cũng phải dừng chân nán lại, ngắm nghía bức tranh mộc mạc, thân thuộc của ngôi nhà. Căn nhà cổ ấy của gia đình ông Nguyễn Văn Bình. Trông từ xa, ngôi nhà vẫn giữ được những nét kiến trúc đặc trưng của nhà cũ. Càng bước vào trong, càng nhận ra nếp nhà kẻ truyền bên trong với thiết kế cánh dại tre thoáng mát trước hiên nhà – nét đặc trưng của những ngôi nhà cũ trong làng Ngái, vùng đất xứ Đoài. Làng cổ Hương Ngải, trước đây còn được biết đến với tên gọi làng Ngái, nổi tiếng với nghề làm nhà kẻ truyền - một kiến trúc nhà ở truyền thống đặc trưng tại vùng đất Xứ Đoài nói riêng và vùng nông thôn miền Bắc nói chung, nổi bật với lối thiết kế cánh dại tre trước hiên. Thế nhưng, thời kỳ khắp nơi đồng loạt phát triển nông thôn mới, những ngôi nhà kẻ truyền lâu đời, mang dấu ấn của thời gian, của lịch sử cũng đang dần mất đi, nhường chỗ lại cho những thiết kế khang trang hơn, hiện đại hơn. Trong xã hội hiện đại, dường như con người ta chỉ mải miết theo đuổi những cái mới, tìm đến những không gian hiện đại, phù hợp với nhu cầu của cuộc sống bây giờ, mà bỏ lại những kiến trúc nhà ở truyền thống được ông cha truyền lại qua bao đời nay. Ngay tại làng cổ Hương Ngải – vùng đất nức tiếng với nghề làm nhà kẻ truyền, giờ đây cũng hiện lên với khung cảnh những căn nhà cao tầng, hiện đại “mọc lên” san sát. Lọt thỏm giữa vùng nông thôn đô thị hóa, ngôi nhà gỗ kẻ truyền bỗng dưng thành một điểm nhấn, một điểm dừng chân tuyệt vời cho những người con xa nhà, làm việc xa quê. “Nhiều khi tôi hay nói vui rằng các cụ nhà tôi để lại cho con cháu một ‘thung lũng bình yên’ giữa dòng chảy đô thị hoá. Căn nhà cổ của gia đình giống như ‘một điểm trũng xưa cũ’ bao quanh bởi những ngôi nhà tầng hiện đại”, ông Nguyễn Văn Bình chia sẻ. Ông Bình không ngần ngại dẫn khách đi một vòng quanh nhà, chỉ cặn kẽ từng mái liếp, cánh dại, chỗ nào cũng được ông giữ gìn cẩn thận. Nhà gỗ nhưng mọi đồ đạc đều được lau chùi tinh tươm. Giữa những ngày nắng chớm hè đầu tháng Tư, ngôi nhà khiến ai bước vào cũng cảm thấy khoan khoái, dễ chịu sau những đoạn đường bê tông, cốt thép. “Xét về giá trị vật chất, ngôi nhà kẻ truyền hay cánh dại tre có lẽ không thể sánh bằng nhà lầu hiện đại, hay những căn biệt thự xa hoa. Nhưng về mặt giá trị văn hoá truyền thống, với tôi, nó là vô giá”, ông Bình nói. Và đó cũng là gia tài vô giá của làng Hương Ngải, của xứ Đoài nói chung khi mà khắp các quận huyện ngoại thành, các thôn xóm, nhà cao tầng, biệt thự… đan xen. Trong dòng chảy đô thị, Hà Nội đang đặt ra bài toán bảo tồn và phát huy những kiến trúc nhà ở truyền thống, dung hoà giữa yếu tố văn hoá lịch sử và tinh thần đương đại. Bóng nhà gỗ kẻ truyền giữa PHẠM BÍCH NGỌC Lang cổ ơ Thủ đo hiện nay đang biên đổi sâu sắc, cả về cấu trúc không gian lẫn kiến trúc nhà ở, cùng với nguy cơ biến mất các giá trị văn hóa, do nhưng tac đọng nội tại từ điều ki n kinh tê, xã họi va qua trình đo thi hoa khôc liệt. TS.KTS Vũ Hoài Đức - Đại học Quốc gia Hà Nội Ngôi nhà cổ theokiến trúc nhà kẻ truyềnvới cánhdại tre trước hiên của ôngNguyễnVănBình. Cánhdại tređược đan tỉmỉ theoquy chuẩn thời xưa. NGAYNAY.VN 6 Số320 - ThứNăm, ngày6/4/2023 CHUYÊNĐỀ
Cánhdại tre chủ yếuđược làmtừnhững thân tregià, thế nhưng, giờ đây để tìm được những khóm tre, bụi tre lâu nămở vùng nông thôn ngoại thành Hà Nội là điều không hề dễ dàng. Những khó khăn trong việc tìm nguồn vật liệu sản xuất chính là trở ngại đầu tiên mà những người lưu giữ nghề làm cánh dại tre như ông Hồng gặp phải. “Giờ chẳng mấy ai làm cánh dại tre nữa, họ đều chuyển qua dùng gỗ rồi, bởi sử dụng gỗ thì người ta có máy, làm cánh dại sẽ nhàn hơn, nhanh hơn mà cũng dễ tìm vật liệu hơn. Nhưng dẫu gì thì cánh dại tre mới đúng như nếp nhà xưa”, ông Hồng chia sẻ. Thời gian để làm được một cánh dại tre hoàn chỉnh thường mất khoảng một tuần với rất nhiều công đoạn, như chọn tre, chẻ nan, phơi khô, đục ống, gióng khung. Chính bởi vậy, người thợ phải thật khéo léo, cẩn thận, tỉ mỉ, nhẫn nại. “Làm cánh dại gỗ thì dễ, còn cánh dại tre thì rất dễ bị vênh nên phải thật bền bỉ, thuần tuý mà làm. Những người nóng tính chắc chắn không làm được”, ông Hồng cho biết. Theo ông Hồng, dù công việc đòi hỏi sự cần mẫn như vậy, nhưng hiệu quả kinh tế thu về không hề cao, đây có lẽ là nguyên do chính mà đến nay ông và người cháu ruột của mình chưa tìm được “truyền nhân” theo nghề làm cánh dại tre ở làng Ngái. Với nghệ nhân 87 tuổi này, ông cố gắng“bám”nghề làmcánh dại tre không phải để mưu sinh, mà chỉ một lòng muốn lưu giữ văn hoá truyền thống, lưu giữ một phần của kiến trúc nhà kẻ truyền nức tiếng của làngmình. Có lẽ cánh dại bây giờ đã thật sự nên“khôn”: Cánh dại nay đã nên khôn Người đi có nhớ xóm thôn quêmình? Câu dao vọng từmái đình Nếp xưa lề cũ đậm tình chân phương…n làng Hương Ngải tôi, không đâu có tiếng như ở đây cả”, ông Phí Mạnh Hồng, nghệ nhân làm cánh dại tre ở làng Hương Ngải, chia sẻ. “Nhà kẻ truyền theo kiến trúc cổ thì dù muốn hay không cũng phải có cánh dại trước hiên, mà cánh dại thì phải làm từ tre, thếmới đúng như nét nhà cổ truyền từ xưa. Nhưng dần không ai làm cánh dại tre nữa nên tôi mới tiếc, mới cố mà giữ cái nghề đó”. Theo người dân trong vùng, từ “cánh dại”, “cánh” được hiểu là cánh cửa, còn “dại”là từ bị đọc chệch đi theo tiếng địa phương, ban đầu nó mang nghĩa “dãi dầu”. Qua đó, cánh dại được hiểu như là cánh cửa dãi dầu che mưa chắn nắng, là chiếc áo “giữ ấm” cho ngôi nhà kẻ truyền thời xưa. Tuy nhiên, nó cũng có thể hiểu đơn thuần là bức chắn, tấm bình phong trước hiên nhà, ngăn cách khoảng sân và không gian sinh hoạt của gia đình. từng phải cải tạo, sửa chữa, nhưng tôi vẫn cố gắng giữ lại những nét từ thời xưa, cố gắng“tân cổ giao duyên” làm sao để giữ được hiện trạng như bây giờ, bởi để trùng tu căn nhà như nguyên trạng ban đầu là điều bất khả thi”, ông Bình chia sẻ. “Ngay như cánhdại tre trước hiên, sương gió mưa nắng, nó không thể bền mãi được, tôi cũng đã từng phải nhờ người làm lại. Maymắn thay trong làng còn một nghệ nhân lớn tuổi vẫn giữ nghề làm cánh dại tre”. Giữ nếp nhà xưa Là địa phương nổi danh với nghề làm nhà kẻ truyền, làm cánh dại từ thời xa xưa, thế nhưng nhiều năm trở lại đây, làng Hương Ngải chỉ còn ông Phí Mạnh Hồng và người cháu ruột giữ nghề làm cánh dại tre cho những ngôi nhà gỗ kẻ truyền. “Xưa tôi theo nghề mộc, bởi làm nhà kẻ truyền bằng gỗ là nghề truyền thống ở tre. Nhưng đó cũng chỉ là những ngôi nhà mang dáng dấp kiến trúc cổ. Còn những ngôi nhà thực sự có niên đại trămnămnhư chốn bình yên của ông Bình thì tiền bạc khó có thể phục dựng được. “Theo thời gian, dù đã Người dânHươngNgải kể chuyện, những năm gần đây, nhiều người trong vùng cũng như khách vãng lai thường tìmvề làngNgái bày tỏmong muốn phục dựng lại những ngôi nhà theo kiến trúc cổ: Nhà kẻ truyền với cánh dại “cơn lốc” bê tông hóa QuánNghinhHương–Di tíchkiến trúc nhà kẻ truyền tại làngHươngNgải, ThạchThất, HàNội. NGAYNAY.VN 7 Số320 - ThứNăm, ngày6/4/2023 CHUYÊNĐỀ
Số320 - ThứNăm, ngày6/4/2023 Giữ văn hóa từ chén nước vối, bánh chè lam Đến làng cổ Đường Lâm, SơnTây, Hà Nội, người ta như lạc vào một thước phim bến nước sân đình tưởng chỉ xuất hiện trong những bộ phim tài liệu cũ. Tuy thường được gọi là làng cổ nhưng thực ra Đường Lâm từ xưa gồm 9 làng thuộc tổng Cam Giá Thịnh huyện Phúc Thọ, trấn Sơn Tây, trong đó có 5 làng: Mông Phụ, Đông Sàng, Cam Thịnh, Đoài Giáp và Cam Lâm liền kề nhau. Các làng gắn kết với nhau thành một thể thống nhất với phong tục, tập quán, và tín ngưỡng hàng ngàn năm nay không hề thay đổi. Thong dong bước vào cổng làng Mông Phụ, du khách được sống chậm khi tản bộ ngắm những bức tường đá ong rêu phong, nhữngsânphơi lốnhốnhững vại tương thơm phức mùi đỗ từ Cam Thịnh qua Cam Lâm, Đoài Giáp… Nhưng thích nhất là được sà vào các quán nước ven đường, ven chợ Mía, nơi có các bà các mẹ giản dị ngồi với cái sạp hàng chỉ toàn quà quê như trứng gà Mía luộc sẵn, bánh tẻ, chè kho…Người thì thích chiếc kẹo lạc giòn tan, người nhónmiếng chè lam sực mùi gừng cay nồng, người lại bị vị ngọt sánh của những chiếc bánh gai mê hoặc cùng chén nước vối, nước chè nghi ngút khói… Theo bà Nguyễn Thị Kim Dung, Phó Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin, UBND thị xã Sơn Tây, sau hơn 16 năm vinh dự được xếp hạng là di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia, Di tích Làng cổ thực của di tích Làng cổ Đường Lâm là một tài sản quý mà các bậc tiền nhân đã để lại, đang được hậu thế kế thừa, bảo tồn và phát triển. Nhưng để cho các giá trị ẩm thực đó được bảo tồn, phát triển một cách khoa học, bền vững và ngày càng thu được những kết quả cao, cần có rất nhiều giải pháp và kết hợp thực hiện giữa nhiều bộ phận, đó là nhân dân địa phương, Nhà nước, nhà khoa học, truyền thông quảng bá, sự giao lưu, học tập, trao đổi, trong đó có yếu tố nổi bật nữa là đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực kế cận. Phục dựng lễ hội truyền thống Vài năm gần nay, người dân xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, Hà Nội được mãn nhãn với những màn đấu vật gay cấn trên sới vật khang trang và bề thế. Hiếm có xã ngoại thành nào được đầu tư một sân vật hoành tráng thế. Cứ tới mùng Bốn Tết Nguyên đán, tiếng trống vật lại giục giã, thôi thúc người dân trong vùng kéo đến sới vật xã Hồng Hà để theo dõi giải vật dân tộc. Mở đầu keo đấu, các đô vật sẽ bắt tay chào nhau thực hiện động tác “se đài” trên nền trống vật giục giã, sau đó là những màn so găng hấp dẫn. Người chiến thắng là người làm cho đối phương “lấm lưng, trắng bụng” hoặc nhấc bổng được đối phương lên khỏi mặt đất. Trận đấu nào cũng lôi kéo hàng nghìn khán giả, khán đài kín đặc, rồi cả đám đông người và xe chen chân đứng trên đê dõi xuống, thậm chí có người vì chậm chân hết chỗ mà leo cây ngồi vắt vẻo… Theo ông Nguyễn Mạnh Hà, Chủ tịch UBND xã Hồng Hà, giải vật của xã được tổ chức lần đầu tiên năm 1960 gắn với lễ hội đầu xuân và được duy trì đều đặn cho đến nay. Để bồi đắp tinh thần vật võ, xã Hồng Hà đã thành lập câu lạc bộ vật từ năm 2012, thu hút nhiều người cao tuổi có tâm huyết muốn truyền đam mê, sở thích và bồi dưỡng kỹ thuật vật cho thế hệ trẻ. Câu lạc bộ cũng “bắt tay” với Ban Giám hiệu Trường Trung học cơ sở Hồng Hà phối hợp tuyển chọn những em từ 10-12 tuổi có năng khiếu vật, tiếp tục gặp gỡ gia đình các em để tuyên truyền, vận ở Đường Lâm đã trở thành điểmđến hấp dẫn. Ngoài hội tụ một khối lượng di sản văn hóa lớn như 100 ngôi nhà cổ, 50 di tích các loại gồm đình, đền, chùa, miếu, lăng, quán, nhà thờ, nhà thờ họ, 15 lễ hội, 2 cổng làng, Đường Lâm còn có ẩm thực phong phú. “Gần 20 năm qua, các hộ dân ở làng đã chung tay xây dựng, bảo tồn các sản phẩm du lịch, trong đó có ẩm thực phục vụ du khách. Đó là gà Mía, chè tươi, nước vối, rượu gạo nếp, khoai lang Đồng Bường, kẹo lạc thôn Đông Sàng, bánh gai của người Mông Phụ, Cam Thịnh, Cam Lâm, Đoài Giáp…”, bà Kim Dung cho biết. Trong số các sản phẩm trên, các loại được khách du lịch ưa chuộng và tiêu dùng nhiều nhất là kẹo các loại, hộ có số doanh thu bán ra nhiều là xưởng sản xuất kẹo của gia đình ông Hiền Bao (thôn Đông Sàng), tương bần thì có hộ ông Hà Hữu Thể (thôn Mông Phụ), bánh gai có hộ bà Nhung Ổn, Cường Lợi (thôn Đông Sàng)…Hai loại được khách du lịch ưa chuộng và tiêu dùng nhiều, đó là thịt lợn quay đòn, thịt và trứng gà Mía. Đây là hai món ăn phổ biến thường xuất hiện đều đặn ở các bữa cơm dành cho khách du lịch. Các món ăn trong bữa cơm hay các sản phẩm bánh kẹo ở Đường Lâm đều thể hiện sự sáng tạo, khéo léo của người dân bản địa. Nó tỉ mỉ từ khâu chọn nguyên liệu, gia vị, các vật liệu phụ kèm đến cách thao tác, bày biện, và các sản phẩmở Làng cổ Đường Lâm luôn thiên về các phương pháp thủ công truyền thống: Cách thức nấu kẹo dồi, cách ướp thịt quay đòn hay quá trình nghiền bột nấu mẻ chè lam như ý, vừa dẻo, thơm, vừa phải không ngọt quá để chiều lòng thực khách… Các món ngon của vùng đất cổ kính do chính người dân sáng tạo ra từ các nguyên liệu sẵn có của vùng bán sơn địa này. Bà Kim Dung cho biết thêm: Các giá trị ẩm Ngoài vùng lõi Thủ đô, 18 huyện, thị xã cũng là nơi mang đậm dấu ấn văn hóa Thăng Long, văn hóa xứ Đoài. Tất cả đều đang chung tay phát triển văn hóa, du lịch từ những tiềm năng sẵn có. VIỆT ĐAN Tiếng vọng nghìn năm từ những miền quê xứ Đoài Nhữngmónquàdândã cây nhà lá vườnđược bàybánở cổng chùaMía. NGAYNAY.VN 8 CHUYÊNĐỀ
Số320 - ThứNăm, ngày6/4/2023 trọng quần thể di tích - danh thắng Quốc gia đặc biệt Hương Sơn (chùa Hương). Tương tự, Ba Vì cũng đã và đang ưu tiên đầu tư bảo tồn các lễ hội lớn trên địa bàn huyện Ba Vì gắn với việc thờ phụng Tản Viên Sơn Thánh như: Lễ hội đình Tây Đằng, lễ hội đình Khê Thượng, lễ hội đình Đông Viên… Huyện cũng đang đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận lễ hội Đình Tây Đằng là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Huyện Thanh Trì với 154 di tích lịch sử văn hóa phân bố trên địa bàn 15 xã và 45 lễ hội truyền thống cũng đã kịp lớp nhân dân địa phương và toàn xã hội xác định rõ nhận thức vị trí, vai trò của văn hóa, coi văn hóa thực sự “đứng ngang hàng với kinh tế, chính trị”, lấy văn hóa, con người làm nền tảng, nguồn lực, động lực quan trọng phát triển bền vững. Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong nhân dân, đặc biệt là rối Tế Tiêu, cồng chiêng An Phú, các làng nghề cổ truyền như dệt Phùng Xá, thêu ren Thượng Lâm, mây tre đan An Mỹ... Đồng thời phát huy giá trị di tích, đặc biệt chú Sôi nổi “cuộc cách mạng” công nghiệp văn hóa Không chỉ ở Sơn Tây, Đan Phượng, khắp các vùng quê ngoại thành Hà Nội đang sôi nổi thực hiện công nghiệp văn hóa theo chỉ thị của Thành phố. Huyện Mỹ Đức nằm cách trung tâm Thủ đô khoảng 50 km, vốn là vùng đất cổ, truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời. Theo ông Đặng Văn Cảnh, Phó Chủ tịch thường trực UBND huyện Mỹ Đức, huyện đang tăng cường chỉ đạo, quán triệt tới các cấp ủy, chính quyền, hệ thống chính trị, các tầng động đưa các em vào câu lạc bộ tập luyện sau những giờ học chính ở trường. Để tăng cường kỹ thuật, Câu lạc bộ vật xã Hồng Hà cũng đón giáo viên tại các trung tâm thể dục thể thao về bồi dưỡng cho các em. Càng ngày, truyền thống vật ở xã Hồng Hà càng được bồi dưỡng, nhân rộng, người dân địa phương vừa bảo tồn bản sắc văn hóa đẹp của quê hương, vừa tôn vinh tinh thần thượng võ, rèn luyện sức khỏe mà bao đời cha ông đã khởi xướng. Là “cửa ngo phía Tây Kinh thành Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội”, huyện Đan Phượng được biết đến là cái nôi của các loại hình nghệ thuật dân gian. Ngoài vật truyền thống ở Hồng Hà, còn rất nhiều loại hình nghệ thuật đang được gìn giữ và phát huy trong thời đại mới như hát ca trù ở xã Thượng Mỗ, thổi cơm thi ở hội Dày, hát chèo Tàu tượng ở hội Gối, hội thả diều Bá Giang, bơi chải ở Đồng Tháp, rước cây bông ở Trung Hà... Theo thống kê, trên địa bàn huyện Đan Phượng có trên 56 lễ hội truyền thống; trong đó 5 lễ hội quy mô cấp xã; tất cả đều đang được gìn giữ từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đông vui nhất là mùa lễ hội từ tháng Giêng đến tháng Tám Âm lịch hàng năm. ban hành, triển khai Đề án“Tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa, các lễ hội truyền thống trên địa bàn huyệnThanhTrì giai đoạn 2021 - 2026”với tổng kinh phí hơn 356 tỷ đồng. Dự án nhằm tu bổ, tôn tạo di tích trên địa bàn, phát huygiá trị di tích lịch sử, cáchmạng, lễhội dângian, truyền thống… Với vị trí đặc biệt của văn hóaHàNội trong tổng thể văn hóa dân tộc, việc phát triển Công nghiệp văn hóa không chỉ góp phần tạo ra nhiều doanh thu, việc làm; mà còn phải gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa Thủ đô trong thời đại toàn cầu hóa. n ÔngĐỗĐìnhHồng, Giámđốc SởVănhóavàThể thao HàNội chobiết: HàNội sẽphát triểncôngnghiệpvăn hóa trênnguyên tắcbảođảmhài hòagiữabảo tồnvà phát triển, phát huy tối đagiá trị vănhóa truyền thống củaThủđô; tiếp thu tinhhoavănhóanhân loại, góp phầnbồi đắp, phát triểnvănhóaThăngLong-HàNội, xâydựngngười HàNội thanh lịch, vănminh”. Công nghiệpvănhóa làsảnphẩmcủavănminh thời kỳ “hậu hiệnđại”; songcôngnghiệpvănhóakhôngmâu thuẫn với công tácbảo tồncácgiá trị vănhóa truyền thống. Ngược lại, nếubiết phát huy thếmạnh truyền thống làm“chất liệu”để tái sáng tạocác sảnphẩmmới chính làphươngcáchkết hợp truyền thốngvàhiệnđại. Đấuvật ở xãHồngHà ĐanPhượng. ẨmthựcĐường Lâmvà vật truyền thốngĐanPhượng. NGAYNAY.VN 9 CHUYÊNĐỀ
Số320 - ThứNăm, ngày6/4/2023 1. Trong cuộc gặp với UBND Hà Nội ngày 27/3/2023, Giám đốc Trung tâm Di sản thế giới Lazarre Eloundou khẳng định rằng UNESCO sẽ đồng hành vớiViệt Namnói chung vàThủ đô Hà Nội nói riêng trong việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa, văn hiến và sẽ tiếp tục hỗ trợ, hợp tác hơn nữa trong thời gian tới. Buổi làm việc cũng thể hiện các cam kết của Việt Nam đối với UNESCO trong việc thực thi nghiêm túc Công ước Di sản thế giới. Đây là một dấu hiệu tích cực cho thấymối quan hệ hợp tác song phương bền chặt giữa UNESCO và Hà Nội. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế, bởi thiếu những tuyên truyền đúng đắn, vẫn còn nhiều người dân, thậm chí cả những người đang công tác trên lĩnh vực văn hóa chưa hiểu đúng về ý nghĩa bảo tồn và phát triển các giá trị di sản văn hóa, đặc biệt là đối với di sản văn hóa phi vật thể, cũng như về mối quan hệ đối tác lâu dài giữa địa phương và tổ chức UNESCO. 2. Quay trở lại năm2019, khi truyền thông Việt Nam liên tục đưa tin về việc Nhà nước chuẩn bị hồ sơ để đệ trình tranh Đông Hồ với UNESCO. Hầuhết tất cảcác nguồn tinđềuđưa ramột số lý lẽ như: Tranh Đông Hồ có giá trị văn hóa cao và đang đứng trước nguy cơ thất truyền, vì vậy cần đệ trình UNESCO sớm để cứu nghề tranh Đông Hồ; tranh Đông Hồ sẽ được UNESCOgiúp đỡ và hồi sinh... Về vấnđề trên, tại hội thảo quốc tế “Vai trò của Ủy ban quốc gia UNESCO trong công tác bảo tồn di sản văn hóa và thiên nhiên vì phát triển bền vững” năm 2019, ông Nguyễn Xuân Thắng, Chủ tịch Liênhiệp cácHội UNESCOViệt Namđãbày tỏquanđiểm:“Tôi rất ngạc nhiên về các luận Sự đồng hành và nguồn lực của UNESCO chỉ thật sự có ý nghĩa khi mỗi người làm văn hóa và người dân hiểu được bản chất của mối quan hệ này. cùng của sự nghiệp bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa là bảo tồn để giới thiệu nền văn hóa dân tộc với bạn bè quốc tế năm châu và để thu hút khách du lịch. 3. Lĩnh vực bảo tồn và bảo tàng của thế giới đã hình thành từ rất lâu trong lịch sử văn minh nhân loại. Nếu soi chiếu rộng ra, Anh quốc có Bảo tàng Quan tài, Nga có Bảo tàng Tang lễ, Pháp có Bảo tàngMa cà rồng, Mỹ có Bảo tàng Thỏ, HànQuốc cóBảo tàngKimchi hay Nhật Bản có Bảo tàng Mì gói. Những bảo tàng không chỉ trưng bày vô số bức tranh, mô hình hay không gian sắp đặt theo chủ đề, mà còn có rất nhiều những sản phẩm kèm theo mang nét đặc trưng của từng nơi. Rõ ràng rằng, không có giới hạn nào cho việc “bảo tàng hóa” và biến nét đặc trưng địa phương thành những điểm du lịch gây tò mò, thu hút du khách, đặc biệt là giới trẻ từ mọi quốc gia trên thế giới, thông qua những ứng dụng tìm kiếm thông tin du lịch quốc tế như TripAdvisor hay Klook. Việc quảngbámột cách bài bản dựa trên những tiến bộ công nghệ chắc chắn sẽ đem lại những kết quả tốt cho cả phát triển du lịch cũng như gìn giữ, thậmchí làmdày hơn những giá trị văn hóa Thủ đô. Ông Nguyễn Xuân Thắng khẳng định: “Bảo tàng giờ đây không chỉ là nơi trưng bày để phô trương các khối tài sản quý giá của quá khứ và hiện tại, mà nơi đây đã trở thành một cánh cửa để thế hệ công dân có điều kiện mở rộng kiến thức lịch sử văn hóa, mở rộng tầm nhìn điểm trên truyền thông và tự hỏi tại sao ngành văn hóa các cấp, chính quyền địa phương, thậm chí Nhà nước Việt Nam không tự cứu lấy tranh Đông Hồ mà phải chờ để UNESCO thay chúng ta làm điều này? Tôi không tin rằngchỉ nhờvào danh hiệu Di sản Thế giới thì sẽ cứu được nghề tranh này, cũng không tin rằng có được cái mà có người thậm chí còn gọi là ‘thương hiệu’ UNESCO thì người dân đang sống trong thế kỷ 21 sẽ mua nhiều tranh Đông Hồ hơn để trang trí ở nhà vào dịpTết như nước nhà 1-2 thế kỷ trước đây.” Theo ông, đứng trước nguy cơ thất truyền, thì ngành văn hóa và các cơ quan có trách nhiệm cần đưa ra các giải pháp chuyênmôn, mà trước hết là cần hướng dẫn các nghệ nhân Đông Hồ phải biết cách tự bảo tàng hóa nghề tranh củamình, tức phải ghi chép, ghi hình, viết sách và truyềndạy có định hướng, thậm chí biến làng tranh thành một điểm hội tụ du lịch, đưa lĩnh vực mỹ thuật dân gian này vào các trường mỹ thuật. “Đó trước hết phải là việc mà Nhà nước và nhân dân cùng làm trước khi chúng ta cầu cứu UNESCO bằng việc làm ngược đời là tôn vinh Tranh Đông hồ là Di sản phi vật thể tầm thế giới. Bởi cầnđềphòng rằng có sự đánh tráo bằngmột nguy cơ để dành lấy một niềm tự hào và thành tích”, ông Thắng nhấn mạnh. Mục đích cuối QUỲNH HOA Bảo tồn và phát huy giá thành phố sáng tạo của Sựkiện diễuhành Việt phục Báchhoa Bộhành tại HàNội. Hợp tác xãVụnArt thamgia sựkiệnTắt đènbật ý tưởng2023 tại HàNội. NGAYNAY.VN 10 CHUYÊNĐỀ
RkJQdWJsaXNoZXIy MTA3Mzg1MA==