SỐ448 (25/9/2025) TẠP CHÍ W W W . N G AY N AY. V N MIỄN PHÍ CƠQUAN NGÔN LUẬN CỦA LIÊN HIỆP CÁC HỘI UNESCOVIỆT NAM ORGAN OF VIETNAM NATIONAL FEDERATION OF ASSOCIATIONS FOR UNESCO TRANG4 - 5 “BẢNSẮC” HÀNỘI trong từng chén trà sen Nâng niu
Dấu ấn Thích Ca sơ sinh Trong các bản kinh Phật giáo lưu truyền từẤnĐộ sang Đông Á, hình ảnhThích Ca sơ sinh luôn gắn liền với những chi tiết huyền diệu. Ngài đản sinh từ hông phải hoàng hậu Ma-da, vừa lọt lòng đã đi bảy bước, dưới mỗi bước nở một đóa sen. Trên không trung, chín con rồng phun dòng nước tịnh khiết để gội rửa. Những mẩu chuyện này không đơn thuần mang tính thần thoại, chúng tạo ra nền tảng cho nghi lễ tắm Phật, một tập tục quan trọng được lưu truyền trong Phật giáo Đại thừa và sớm du nhập vào Việt Nam. Giới nghiên cứu cho rằng ngay từ thế kỷ II - III, khi Giao Châu trở thành nơi gặp gỡ các luồng giao thương và văn hóa, tín ngưỡng gắn với Đức Phật sơ sinh đã có mặt. Thời Sĩ Nhiếp, cùng với chữ Hán và Nho học, Phật giáo bắt đầu được chỗ đứng ban đầu. Từ đây, việc tôn thờ hình tượng thái tử sơ sinh và nghi lễ tắm Phật dần trở thành nét sinh hoạt gắn với cả cộng đồng tăng sĩ và giới cư dân bản địa. Theo PGS.TS Trần Trọng Dương, sử liệu Việt Nam còn ghi nhận những chứng cứ xác thực. Tấmbia SùngThiện Diên Linh niên đại 1121, dựng ở chùa Long Đọi Sơn (Hà Nam), nhắc đến lễ tắm Phật diễn ra trong khuôn viên chùa. Cùng thời gian, bộ sử Đại Việt sử ký toàn thư cũng cho biết vua Lý Nhân Tông từng thân hành tham dự nghi thức này. Điều đó cho thấy từ thế kỷ XI - XII, lễ tắm Phật và hình tượng Thích Ca sơ sinh đã bước ra khỏi phạm vi tu viện để trở thành nghi lễ quan trọng, có sự tham dự của triều đình. Bối cảnh ấy phù hợp với vị thế đặc biệt của Phật giáo dưới triều Lý - Trần. Khi được xem là quốc giáo, Phật giáo không chỉ là sinh hoạt tín Biến đổi cùng văn hóa Việt Từ nền tảng được định hình trong thời Lý - Trần, tín ngưỡng gắn với Đức Phật sơ sinh tiếp tục được duy trì và biến đổi trong các giai đoạn lịch sử sau. Theo PGS. TS Trần Trọng Dương, sử liệu cho thấy lễ tắm Phật không bị gián đoạn mà ngày càng được tổ chức quy củ hơn, phản ánh sự song hành của Phật giáo trong cả cung đình và dân gian. Ở triều Lê sơ, nhiều văn bản đã ghi nhận việc tổ chức lễ tắm Phật vào dịp Phật đản. Nghi lễ này, theo ông, mang tính chất trang nghiêm, có sự tham dự của giới tăng lữ và cả quan lại địa phương. Đến thời Lê Trung hưng, lễ Phật đản vẫn là dịp trọng đại, trong đó hình tượng Thích Ca sơ sinh tiếp tục được đặt ở vị trí trung tâm. Triều Nguyễn cũng để lại dấu tích rõ ràng. Tư liệu cho thấy trong kinh thành Huế, lễ Phật đản được tổ chức long trọng tại các quốc tự. Hoàng gia nhiều lần thân hành dự lễ, khẳng định vai trò của ngưỡng mà còn là trụ cột tinh thần của vương quyền. Nghi lễ tôn vinh Đức Phật sơ sinh, với thông điệp thanh tẩy và khởi nguyên, đã góp phần định hình căn cốt của Phật giáo Việt Nam thời kỳ này. Qua đó, hình tượng Thích Ca sơ sinh vừa mang tính chất tôn giáo, vừa trở thành biểu tượng gắn bó với đời sống cung đình. Không chỉ ở khía cạnh sử liệu, giới khảo cổ học cũng đặt ra nhiều giả thuyết xung quanh vấn đề này. Ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh), các dấu tích như ao rồng, trụ đá chạm khắc hình rồng hay giả thuyết về một pho Cửu Long từng hiện diện đã được nhắc đến. Dù chưa đủ căn cứ để kết luận dứt khoát, những mảnh vỡ ấy gợi mở một hình dung ngay trong thời Lý, hình tượng Phật sơ sinh cùng nghi lễ tắm Phật có thể đã được tạo tác bằng vật liệu gỗ hoặc đá, nhằm phục vụ nhu cầu cúng lễ của triều đình và dân chúng. Điều đáng nói là phần lớn dấu tích vật chất của giai đoạn này đã bị thất tán qua chiến tranh và thời gian. Nhiều công trình chỉ còn lại bia đá hoặc ghi chép rời rạc. Chính sự khuyết thiếu đó càng khiến hình tượng Thích Ca sơ sinh ở Việt Nam thêm phần huyền ảo, nằm ở lằn ranh giữa sử liệu xác thực và khoảng trống khảo cổ. Từ huyền thoại bước ra đời sống tín ngưỡng, hình tượng Thích Ca sơ sinh đã theo dòng chảy lịch sử Việt Nam suốt gần hai thiên niên kỷ… Khi truyền thống “hóa thân” vào sáng tạo đương đại MAI SƠN Phiênbản từ sáng tạo củaSen Heritagenhận được sựquan tâmlớn của cộngđồng. Nghi lễ tắmPhật được thực hiện với TuDi tòa ThíchCa sơ sinh. NGAYNAY.VN 2 CHUYÊNĐỀ Số448 | ThứNăm, ngày 25/9/2025
nghi thức tắm Phật như một phần trong sinh hoạt chính lễ của triều đình. Điều này cho thấy tính liên tục của nghi lễ xuyên suốt từ Lý - Trần sang Lê - Nguyễn. Song song với nghi lễ, tôn tượng Thích Ca sơ sinh cũng có sự biến đổi về hình thức và chất liệu. Từ thời Lý, các nhà nghiên cứu đã nêu giả thuyết về sự hiện diện của pho Cửu Long mộc Thái tử, dù hiện chưa tìm thấy dấu vết cụ thể. Đến giai đoạn sau, nhiều chùa trên cả nước vẫn duy trì việc thờ tượng sơ sinh, phục vụ cho lễ tắm Phật. Những pho tượng này, theo PGS.TS Trần Trọng Dương, chính là minh chứng cho sự tiếp nối và sáng tạo không ngừng trong mỹ thuật Phật giáo Việt Nam. Dung hòa cùng thẩm mỹ đương đại Nếu các thế kỷ trước chỉ để lại những dấu tích rời rạc thì trong đời sống Phật giáo hôm nay, hình tượng Thích Ca sơ sinh lại hiện diện rõ nét, trở thành tâm điểm của lễ Phật đản. PGS. TS Trần Trọng Dương cho rằng chính sự thiếu hụt hiện vật thời Lý - Trần đã khiến các thế hệ sau luôn có nhu cầu tái tạo và sáng tạo hình tượng này trong không gian chùa chiền cũng như trong nghi lễ cộng đồng. Gần đây, PGS.TS Trần Trọng Dương và Sen Heritage đã công bố kết quả nghiên cứu về tượng Đức Thích Ca sơ sinh tọa trên cột đá chạm búp sen rồng cuốn thời Lý, với giả thuyết tác phẩm từng đặt tại ao rồng chùa Phật Tích cách nay hơn chín thế kỷ. Các phiên bản Tu Di tòa Thích Ca sơ sinh đã được đưa vào sử dụng trong nghi lễ tắm Phật tại Đại lễ Vesak Liên hợp quốc 2025, đồng thời sẽ trưng bày tại chùa Quán Sứ và chùa Phật Tích trong mùa Phật đản. Công trình này bao gồm nhiều hình thức: bản chế tác trên đá, vẽ 2D, vẽ 3D trụ đá, bản AR, bản mô phỏng ý tưởng thiết kế Tu Di đài và phỏng dựng thực tế ảo VR. Trong những thập niên gầnđây, nhiềungôi chùa cũng chủ động tạo tác tượng mới để phục vụ nghi lễ tắm Phật hằng năm. Các pho tượng bằng gỗ, đồng hay vật liệu hiện đại vừa đáp ứng nhu cầu nghi lễ, vừa tôn vinh mỹ cảm Phật giáo. Một số tác phẩm có quymô lớn, đặt trang trọng tại sân chùa, trở thành điểm hội tụ của hàng nghìn Phật tử. Về quá trình sáng tạo, PGS.TS Trần Trọng Dương nhấn mạnh nhóm nghiên cứu không chỉ phấn đấu tái hiện phong cách Lý mà còn đưa vào yếu tố thẩm mỹ đương đại để sản phẩm hòa nhập với đời sống hôm nay. “Đây không phải là phục dựng hay phỏng dựng, mà là sáng tạo dựa trên cơ sở khảo cổ học”, ông cho biết. Khi thiết kế tượng, nhóm nghiên cứu đã tham khảo nhiều hiện vật từ tượng Kinnara ở chùa Phật Tích để lấy độ phì của má, tạo vẻ uy nghiêm và duy mỹ khác với tượng LêTrungHưng; phong cách ướt áo gợi từ tượng A Di Đà cùng địa điểm; thùy tai cũng từ Phật Tích; tòa sen hai lớp cánh tham khảo hiện vật tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia TP.HCM. Hoa văn trang trí đều dựa trên gốc tích thời Lý, bảo đảm tính kế thừa thay vì sáng tạo hoàn toàn. Trong kế hoạch tương lai, nhóm hướng đến lan tỏa sản phẩm đến cộng đồng, phù hợp với chủ trương của Ban Văn hóa Giáo hội Phật giáo Việt Nam về xây dựng văn hóa Phật giáo thống nhất trong đa dạng. Việc sáng tạo tôn tượng trên cơ sở truyền thống, theo PGS. TS Trần Trọng Dương, không chỉ đáp ứng định hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mà còn góp phần phát triển công nghiệp văn hóa. Hiện 98% tôn tượng Thích Ca sơ sinh ở Việt Nam vẫn nhập khẩu, chủ yếu từ Đài Loan, không gắn với bất kỳ triều đại nào. Vì vậy, nhóm nghiên cứu kỳ vọng những sáng tạo mới sẽ được phổ biến rộng rãi, giúp công chúng nhận diện và trân trọng giá trị Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là phong cách thời Lý. n PGS.TS TrầnTrọngDương và Sen Heritage đã côngbốkết quảnghiên cứuvề tượngĐức ThíchCa sơ sinh tọa trên cột đá chạmbúp sen rồng cuốn thời Lý, với giả thuyết tác phẩmtừng đặt tại ao rồng chùaPhật Tích cách nay hơn chín thế kỷ. Các phiênbảnTu Di tòaThíchCa sơ sinhđãđược đưa vào sửdụng trongnghi lễ tắmPhật tại Đại lễVesak Liênhợpquốc 2025, đồng thời sẽ trưngbày tại chùaQuán Sứvà chùaPhật Tích trongmùaPhật đản. Công trìnhnày baogồmnhiều hình thức: bản chế tác trênđá, vẽ 2D, vẽ 3D trụđá, bảnAR, bảnmôphỏng ý tưởng thiết kế TuDi đài vàphỏng dựng thực tế ảoVR. PGS.TS TrầnTrọngDương lànhànghiên cứunổi bật về lịch sử, biểu tượng tôngiáovà chữHánNôm. TuDi tòaThíchCa sơ sinh trên cột đáChùaDạm(BắcNinh). Đây không phải là phục dựng hay phỏng dựng, mà là sáng tạo dựa trên cơ sở khảo cổ học. PGS.TS Trần Trọng Dương NGAYNAY.VN 3 CHUYÊNĐỀ Số448 | ThứNăm, ngày 25/9/2025
Vớinhàbáo, chuyêngia ẩm thực Vĩnh Quyên, mỗi bông sen như đoá thơm duyên, gói trong đó không chỉ là hương sen, mà còn là câu chuyện, ký ức vàmột nếp sống thanh lịch của người Hà thành. Mùa sen ngắn, hương sen dài Sen bách diệp Tây Hồ từ lâu đã trở thành biểu tượng tinh túy của Thủ đô. Với những cánh hoa hồng thắm, hương thơm dịu dàng mà bền, gạo sen to, căng mọng, bách diệp liên hoa đã được cấp chứng nhận sở hữu trí tuệ, khẳng định giá trị độc đáo không nơi nào có được. Nhà báo, chuyên gia ẩm thực Vĩnh Quyên, người đã dành nhiều năm nghiên cứu về trà sen chia sẻ: Sen Tây Hồ không chỉ đẹp ở hình thức, mà còn ở sự tận hiến. Từng bộ phận của sen từ cánh hoa, gạo sen, ngó sen, củ sen, tơ sen, lá sen, đài sen đến hạt sen, đều được sử dụng để tạo nên những món ăn, thức uống, đồ dùng mang hương sắc Hà Nội. Chỉ kéo dài chừng ba tháng, nhưng mùa sen ngắn ngủi ấy lại là khoảng thời gian mà người làm trà dành trọn tâmhuyết để chắt lọc tinh túy của trời đất vào trong từng chén trà. Thưởng trà sen, với người Hà Nội, không chỉ là thưởng thức hương vị chén trà mà còn là một thú chơi tao nhã, một cách để lưu giữ ký ức và cảm nhận sự thanh bình giữa nhịp sống tất bật. Trong những ngày oi ả, cầm trên taymột bông trà sen, mở từng cánh hoa mỏng manh, gỡ lấy từng cánh trà, người ta như chạm vào một phần tinh túy của thú chơi tao nhã. Nghệ thuật lưu hương mùa hạ Nếu như trà sen truyền thống được ướp cầu kỳ với gạo sen qua bảy lần ướp rất công phu, là biểu tượng của sự nhẫn nại và tỉ mỉ, thì trà sen xổi lại là một sáng tạo mới mẻ của người Hà Nội để gìn giữ hương sen một cách giản dị mà vẫn trọn vẹn. Trở nên phổ biến khoảng 10 năm gần đây, cách làm trà sen xổi được bắt đầu với công đoạn nhất là sen rồi đến trà. Bà Vĩnh Quyên giải thích: Sen làm trà phải là sen bách diệp miệng sáo, tức là bông sen chưa nở, mới chỉ chúm chím để giữ được hương thơm đậm đà nhất. Nếu sen nở quá, hương tỏa nhiều, trà sẽ không đậmhương. Những bông sen cần được hái vào sáng sớm, khoảng 4-5 giờ, khi mặt trời chưa lên. Sau khi hái, sen được chuyển về ướp trà ngay trong buổi sáng để đảm bảo độ tươi mới. Trà được chọn để ướp thường là loại tràTân Cương, không cần quá đắt tiền như trà Đinh, bởi “trà sen xổi không cần uống đậm, mà uống lấy hương”, bà Quyên chia sẻ. Trà Tân Cương được nhẹ nhàng đặt vào trong bông sen, giữa lớp cánh hoa mỏng manh, rồi dùng lá sen tươi gói lại cẩn thận. Bông trà sau khi ướp sẽ được cắm vào bình nước khoảng một ngày, sau đó hút chân không để trong ngăn đá từ 7-8 ngày là uống được. Đặc biệt, nếu làm và bảo quản đúng cách, trà sen xổi có thể để được đến 2 năm mà khi mở ra cánh sen vẫn tươi nguyên. Bà Vĩnh Quyên nói thêm: Khi mở bông sen ra, bạn sẽ thấy cánh hoa vẫn hồng tươi, mềmmỏng như lụa với hương thơm thanh khiết. Đó là dấu hiệu một bông trà được làm đúng cách, đúng giống sen bách diệp Tây Hồ”. Không giống như những sản phẩm công nghiệp khác, trà sen – dù là trà truyền thống hay trà ướp xổi, vẫn là một thức trà “có hồn”. Người làm trà không dùng tay trần, không xức nước hoa, không dùng dầu gội mùi mạnh. Không gian làm trà phải sạch, tĩnh, nhẹ nhàng. Người làm cũng cần “đẹp” cả trong tâm trạng để từng bông sen khi ủ trà đều mang theo một năng lượng thư thái. “Làm trà sen xổi là làm thủ công, nên không bông nào giống bông nào. Có thể bông này nở sớm hơn, bông kia lớn hơn chút, hương vị vì thế mà cũng sẽ có chút riêng biệt”. Với trà sen xổi, người uống không chỉ cảm nhận hương vị của trà, mà còn cảm nhận năng lượng của người làm. Nó không dành cho người vội vã, mà để uống chậm, để “thưởng” và để sống sâu trong từng khoảnh khắc. Nâng niu “bản sắc” Hà Nội Từ bao đời nay, người Hà Nội đã lưu giữ cái tinh tế của mùa sen bằng cách ướp vào trà, biến một thức uống thường ngày thành nghệ thuật tao nhã và duy trì đến tận bây giờ. ÁNH NGỌC Khônggianấmcúngvà tinh tế củaworkshop “Gói hươngSen -MởnếpHàNội”. NGAYNAY.VN 4 CHUYÊNĐỀ Số448 | ThứNăm, ngày 25/9/2025
trong từng chén trà sen Thưởng trà: Nét tao nhã của người Hà Nội Người xưa có câu: “Nhất thủy, nhì trà, tam pha, tứ ấm”, là các yếu tố quyết định đến một chén trà ngon. Nước tốt nhất phải là nước sương đọng đầu cành, nước suối đầu nguồn hay nước giếng khơi sâu bởi “dụng thủy như dụng dược” - dùng nước pha trà cũng cần tinh tế như dùng thuốc. Tuy nhiên, ngày nay có thể dùng nước lọc đóng chai cũng khá tốt. Nước đun sôi rồi để nguội mới chút chừng 95 độ, pha trà sẽ ngon, không làm trà bị chín quá. Sau khi chọn được nước, được trà, bên cạnh cách pha thì ấm trà cần được chuẩn bị kỹ lưỡng. Và quan trọng hơn cả, là tâm thế của người uống. “Uống trà sen không phải là nghi lễ cầu kỳ nhưng cần sự tinh tế. Uống một chén trà sen cần có sự sửa soạn chu đáo, sửa soạn trà, sửa soạn tâm thế, để cảm nhận được vị ngon, hương vị của đất trời”, chuyên gia ẩm thực Vĩnh Quyên nhấnmạnh. Trà sen xổi không chỉ là thức uống, mà còn thể hiện nếp sống chậm của người Hà Nội, để nhớ, để thương và trân trọng những giá trị văn hóa giản dị mà sâu sắc. Người lớn tuổi tìm thấy trong đó ký ức của một Hà Nội xưa, với những buổi sáng yên bình bên chén trà thơm. Cònngười trẻ tìm đến trà sen để được làm quen với một thức uống chứa hơi thở của Thủ đô, để từ đó thêm yêu và trân trọng những giá trị truyền thống. Với tinh thần giữ gìn bản sắc truyền thống, đồng thời lan tỏa những nét đẹp thanh tao trong nếp sống người Hà Nội đến thế hệ trẻ, bà Vĩnh Quyên đã thử nghiệm các cách thưởng trà mới như trà sen uống lạnh, hay kết hợp với những thứ quà Hà Nội như hồng bì, sấu ngâm đường phèn để tạo nên những thức uống sáng tạo, vừa giữ được nét truyền thống, vừa mang hơi thở hiện đại. “Giới trẻ bây giờ thích đồ uống mới, mát lạnh. Nhưng nếu chỉ uống mà không hiểu thì sẽ quên nhanh. Còn nếu vừa uống vừa nghe câu chuyện, vừa hiểu được nếp sống thì sẽ nhớ mãi”, bà nói. Trà sen, qua bàn tay của người Hà Nội, đã từ một thức uống trở thành một món quà văn hóa. Với tình yêu đó, chuyên gia Vĩnh Quyên đã biến trà sen xổi thành một món quà nồng nàn Hà Nội. Ban đầu, bà làm trà cho gia đình uống, rồi tặng bạn bè. Dần dà, người này truyền người kia, nhiều bạn bè nước ngoài khi về Việt Nam cũng tìm đến bà để đặt. Như một mối duyên lành, bông trà sen đã đến với bạn bè quốc tế như một lời chào dịu dàng từ Thủ đô Hà Nội thanh lịch. “Làm trà - phải biết câu chuyện, nguồn gốc, phải đi tới tận nơi, nhìn người hái trà, phải thấy và hiểu được quy trình trồng và chăm sóc cầu kỳ đến nhường nào… để khi pha một bông trà sen, mình biết rằng mình đang kể một câu chuyện ý nghĩa và có giá trị” , bà Quyên chia sẻ. Với hương vị thanh tao, trà sen xổi là minh chứng cho sự sáng tạo trong việc bảo tồn văn hóa, lưu giữ những câu chuyện về trà, về sen Tây Hồ và về những con người đang gìn giữ nét đẹp Tràng An. Trong từng bông trà, là cả một mùa hạ, một mảnh đất và tâm hồn người Hà Nội. n Chuyêngiaẩmthực VĩnhQuyên chia sẻ về cách làmtrà sen xổi. Ấmtrà sen lưugiữ trọnvẹnhươngmùahạ. Làm trà sen xổi là làm thủ công, nên không bông nào giống bông nào. Có thể bông này nở sớm hơn, bông kia lớn hơn chút, hương vị vì thế mà cũng sẽ có chút riêng biệt. Nhàbáo, chuyêngia ẩmthực VĩnhQuyên NGAYNAY.VN 5 CHUYÊNĐỀ Số448 | ThứNăm, ngày 25/9/2025
Tìm lại từng công đoạn xưa cũ Sinh ra và lớn lên tại vùng cao Tây Bắc, tuổi thơ của Trần Thị Hiền gắn liền với hình ảnh bà và mẹ cặm cụi thêu thùa bên khung vải. Mỗi họa tiết thổ cẩm không chỉ là hoa văn trang trí, mà còn chứa đựng câu chuyện, bản sắc và niềm tự hào của cả cộng đồng chị. “Tôi sinh ra và lớn lên ở Sa Pa, những công việc về thêu, dệt thổ cẩm ngấm vào máu không biết từ bao giờ”, chị Hiền chia sẻ. Hơn 10 năm làm trong ngành du lịch, song biến cố đại dịch COVID-19 đã khiến chị nhìn lại con đường củamình. “Tôi nghĩ mình cần phải làm những việc thuộc về bản thân. Tôi nghĩ đó là thời điểm”, chị tâmsự. Trong một chuyến trở về bản, được hít hà mùi chàm, nghe tiếng thoi đưa lách cách, chịHiềncảmgiácnhưđược trở về tuổi thơ. Từ đó, chị cùng các chị em thử sức ứng dụng thổ cẩm vào tranh, nội thất, thời trang, quà tặng. Tuy nhiên, quy mô nhỏ lẻ, thị trường bấp bênh, còn người trẻ dần rời xa nghề truyền thống. Đồng tại Cuộc thi Thách thức sáng kiến kinh doanh của Hội Phụ nữ tỉnh Lào Cai và Tổ chức phi chính phủ Aide et Action Việt Nam (AEA) tổ chức. Bên cạnh đó, chị cũng tiếp cận dự án quốc tế như “Nếu không ai giữ, nghề sẽ mất”, ý nghĩ ấy thôi thúc chị Hiềnhànhđộng. Chịmuốntạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần xây dựng sinh kế ổn định và nâng cao vị thế cho phụ nữ dân tộc thiểu số. Năm 2023, chị Hiền chính thức thành lập Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Dịch vụ Thổ Cẩm Việt Nam với mongmuốn“biến tấm vải thổ cẩm thành chiếc cầu nối giữa truyền thống và thị trường hiện đại”. Hiện công ty có 7–10 lao động thường xuyên cùng hàng chục phụ nữbản địa làm bán thời gian, 90% là phụ nữ dân tộc thiểu số ở nhiều lứa tuổi. Công ty liên kết với gần 40 phụ nữ, cho phép họ làm việc tại nhà, vừa sản xuất vừa canh tác, mang lại thu nhập ổn định 3–5 triệu đồng/tháng. Khởiđầukhôngthiếugian nan. Chị Hiền quay về tìm lại từng công đoạn xưa cũ: Trồng lanh, dệt vải, nhuộm chàm đến thêu thùa…Chị đến gặp các bà, các mẹ để học nghề, rồi kết nối chị em trong bản cùng nhau bắt tay làm lại từ đầu, dù chỉ với những đơn hàng nhỏ lẻ. Là người bản địa, chị nhận ra nhiều điều đã dần mai một. Không có nguồn lực hỗ trợ, song chính sự gian khó giúp chị hiểu nghề một cách hệ thống và nuôi dưỡng hướng đi mới: giữ hồn cốt truyền thống nhưng cải tiến để phù hợp thị hiếu đương đại. Chỉ hai năm sau, thành quả đã đến. Sản phẩm của chị giành giải nhì Thủ công Mỹ nghệ quốc gia năm 2023, rồi giành giải Nhất vào năm sau. Sản phẩm bộ trải bàn ăn “Hương rừng Sa Pa” được tái chế từ vải thổ cẩm cũ đã đạt giải B tại Hội thi sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam 2023 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức. Ý tưởng tái chế còn đoạt giải Giữa nhịp sống hiện đại hối hả, Trần Thị Hiền - một phụ nữ dân tộc Tày ở Sapa đang lặng lẽ viết nên câu chuyện hồi sinh của nghề thủ công truyền thống. Nếu không ai giữ, nghề sẽ mất… NGỌC ÁNH Chị TrầnThị Hiền tạiWorkshopnhuộm chàm. Ảnh: Hotel de laCoupole. Người thợ thiết kếbằng sápong trênvải. NGAYNAY.VN 6 CHUYÊNĐỀ Số448 | ThứNăm, ngày 25/9/2025
IDAP để kết nối chuyên gia và mở rộng thị trường. Sắc chàm – Linh hồn của thổ cẩm Nhuộm chàm là một quy trình nhuộm vải sử dụng một loại thuốc nhuộm tự nhiên chiết xuất từ lá cây chàm (Indigofera), phổ biến trong nhiều nền văn hóa phương Đông và phương Tây từ hàng ngàn năm trước. Nước nhuộm này, có màu xanh lam đặc trưng và được sử dụng rộng rãi để nhuộm quần áo, đặc biệt là vải denim và trang phục truyền thống của nhiều dân tộc. Với các dân tộc thiểu số như Mông, Dao, Thái, nghề này trở thành biểu tượng văn hóa và là trung tâm trong hành trình của chị Hiền. Để ra được nước nhuộm, lá chàm phải ngâm trong nước khoảng từ 3-7 ngày tùy thời tiết. Sau khi vớt bã, lấy nước đánh kỹ 1-2 ngày với vôi hoặc tro bếp để lấy cao chàm. Tỷ lệ pha thường là 1:10, và chị Hiền ví von, chàm được coi như một “cơ thể sống”cần ăn, nghỉ. Để làm ra một sản phẩm thổ cẩm, những người thợ sẽ thiết kế và vẽ bằng sáp ong trước. Thường những thiết kế là hình ông mặt trời, quyền trượng... những cái biểu tượng thông dụng trong đời sống của người dân tộc. Quy trình xử lý vải rất quan trọng trước khi nhuộm. Nếu hồ vải không xử lý kỹ thì sẽ không lênmàu khi nhuộm. Cách nhuộm sẽ phụ thuộc vào màu mà người nhuộm mong muốn. Nếu chỉ cần màu xanh da trời nhạt thì chỉ cần 1-2 lần nhúng vào chàm và phơi khô. Nếu muốn màu đậm hơn, đen hơn thì công đoạn đó lặp đi lặp lại rất nhiều lần. Để ra nhiều gam màu từ màu xanh hay đến màu đen thì cần kết hợp chàmvà củ nâu - một nguyên liệu truyền thống khác. Chẳng hạn để lên một cái áo của người Mông, công đoạn đó nhuộm nhiều khi phải mất đến 15-20 lần. Một lần sẽ mất gần một giờ đồng hồ, được tính bằng cách cho vải vào nước chàm vò, sau đó đem đi phơi khô. Để nhuộm một tấmvải phải mất vài ngày. Chưa kể quá trình làm khô tự nhiên còn phụ thuộc vào thời tiết. Cứ xong một lần, vải phải khô thì mới tiếp tục được cho vào nhuộm tiếp. Có những cái rất hay mà người làm nghề hay ví von, chàm rất “đỏng đảnh”. Nhuộm chàm lên được màu hay không còn phụ thuộc vào thời tiết. Người dân còn lưu truyền nhiều điều kiêng kỵ: Phụ nữ mang thai tuyệt đối không được nhuộm chàm, hay có những“bàn tay không hợp vía” dễ khiến mẻ chàm hỏng. Các sản phẩm được làm từ chàm của chị Hiền nhanh chóng mở rộng: áo, khăn, trang phục cách tân, đèn thổ cẩm, đèn sợi tơ từ sợi chỉ đan. Chị còn ứng dụng vào nội thất như tranh tường, đồ trang trí. Công ty của chị kết hợp với người dân địa phương để sản xuất vải, nhuộm, may và thiết kế. Bảo tồn truyền thống không đơn giản chỉ là gìn giữ Từ những thành công ban đầu, chị Hiền vẫn trăn trở về sự phai nhạt của nghề truyền thống. “Người trẻ ngày nay ít mặn mà, nhiều người bỏ nghề vì không thấy lợi ích kinh tế”, chị nói. Bởi vậy, chị luônnỗ lực tổ chứcworkshop, mở lớp dạy nghề để khơi gợi lại niềm hứng thú cho lớp trẻ. Tương lai, chị hướng đến phát triển mạnh mảng workshop và lưu niệm tại Sa Pa trước, rồi mở rộng ra nước ngoài với sản phẩm cao cấp hơn. Chị cũng tìmcáchứngdụng khoa học kỹ thuật vào việc sản xuất những sản phẩm thủ công, ví dụ bông hóa sợi lanh để dệt vải khổ lớn hơn – ý tưởng đã giúp chị giành giải Nhất cuộc thi khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh Lào Cai năm 2024. Hành trình của Trần Thị Hiền không chỉ cứu vãn một nghề thủ công mà còn truyền cảm hứng cho cộng đồng. “Là người trẻ, sinh ra và lớn lên tại Sa Pa, được gắn bó với văn hóa dân tộc nên tôi luôn khao khát giữ gìn những hoa văn, họa tiết, giá trị truyền thống và tri thức bản địa của đồng bào dân tộc thiểu số”, chị nói. Trong bối cảnh văn hóa truyền thống đang đối mặt với nguy cơ mai một, câu chuyện của chị nhắc nhở rằng bảo tồn không phải là giữ gìn mà là thích ứng, sáng tạo. Như chị khẳng định: “Có thể người trẻ đã rời xa nghề, nhưng nếu có sự chung tay truyền thông, quảngbá và kết nối, chắc chắn họ sẽ quay lại”. n Hìnhảnhngười thợnhuộmchàm. Tôi sinh ra và lớn lên ở Sa Pa, những công việc về thêu, dệt thổ cẩm ngấm vào máu không biết từ bao giờ. Chị Trần Thị Hiền NGAYNAY.VN 7 CHUYÊNĐỀ Số448 | ThứNăm, ngày 25/9/2025
Tại Room II – không gian họp lớn thứ hai tại trụ sở UNESCO ở Paris, Pháp - nơi được biết đến là không gian biểu tượng của UNESCO, nơi lưu giữ những giá trị di sản nhân loại, các kháchmời quốc tế đã chứng kiến sự tỏa sáng của áo dài Việt Nam qua những câu chuyện về đồng lúa, người nông dân và hồn quê Việt. Những giai điệu thiết tha về tà áo dài Việt Nam khiến bao người xa xứ thổn thức: “Đẹp biết bao quê hương cho ta chiếc áonhiệmmàu Dù ở đâu Paris, London hay nhữngmiền xa Thoáng thấy áo dài bay trênđườngphố nơi chiếc giỏ cói thân quen kề vai người làm thuê. Một chiếc áo xám đan caro lưới liếp hiện lên, như tái hiện cảnh người nông dân ngụp lặn trongmưa lũ, cố sức cắt vác lúa giữa dòng nước xám xịt tràn ngập cánh đồng. Áo dài trắng đen hai vai kể câu chuyện về ngày và đêm miệt mài cấy trồng, nơi ánh sáng và bóng tối hòa quyện trong sự tảo tần. Màu đỏ trên hai vai ám chỉ nắng đổ lửa bỏng cháy cả vai người nông dân trên đồng. Hình ảnh hàng rào tre thấp cắmxéo trước sân nhà, bên những khóm hồng, giờ đây ngập trong màu xám của lũ, cũng được tái hiện tinh tế trên từng tà áo. Mỗi thiết kế không chỉ là một tác phẩm thời trang, mà là một mảnh ký ức về sự cần cù, chịu khó chịu thương của chính những bà con nông dân quê anh. Như Thanh Danh từng chia sẻ trongbài phỏngvấn trên Ngày Nay (9/4/2025): “Tôi không chỉ làm áo dài, tôi muốn kể chuyện, muốn mang cả làng quê theo mình.” Từ một thầy giáo ở Đồng Nai, anh mày mò học may, từng đốt đèn khâu vá dưới ánh đèn, để rồi đưa áo dài Việt đến những sân khấu quốc tế như Nhà Trắng (2018), lễ hội di sản châu Á tại NASA (2023), Berlin (2024), và giờ là UNESCOParis (2025). Chứng kiến màn trình diễn, bà Anoa Suzzanne Dussol Perran, Đại sứ Du lịch Việt Nam tại Cộng hòa Pháp đã bày tỏ sự ấn tượng trước màn trình diễn “Lúa” cũng những thiết kế tinh tế, đẩy bản sắc Việt. Bà cũng cho biết sẽ là những người Việt xa quê hương không khỏi xao xuyến, như được chạm vào linh hồn của làng quêViệt. Những hình ảnh từ thước phim ấy đã được thu lại thành những hoa văn đặt lên vạt áo, lên cánh tay, lên đôi vai của những người người mẫu thong dong bước dọc theo lối đi của hội trường và tiến về sân khấu. Trên nền nhạc “Giấc mơ trưa” - giọng hát Thùy Chi da diết, từng thiết kế hiện lên như những bức tranh sống động, tái hiện cánh đồng lúa, những giọt mồ hôi và niềm hy vọng của người nông dân. Nhà thiết kế Lê Thanh Danh, người từng mang áo dài Việt đến các sân khấu quốc tế tại Berlin,WashingtonD.C., Tokyo, đã dệt nên những câu chuyện quê hương qua từng đường kim, mũi chỉ. Anh chia sẻ: “Tôi vô cùng vinh dự khi được gửi gắm những cảm xúc tinh khôi vềcây lúa, nhữngkhoảnhkhắc giản dị trên đồng ruộng, nơi thấmđẫmmồhôi và lòng kiên trì của người nông dân. Được góp mặt trong sự kiện tại Trụ sở UNESCO là vinh hạnh, là cơ hội quý báu đối với Thanh Danh cũng như toàn bộ ekip biểu diễn.” Mỗi tà áo dài trong bộ sưu tập “Lúa” là một câu chuyện sống động, dệt nên từ những hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam. Có chiếc áo dài với họa tiết đan caro, gợi nhớ cái sàng lúa rung lên trong niềm vui của vụ mùa năng suất. Một thiết kế áo đen con trai, mang hơi thở của những đêm mót lúa dưới ánh trăng, QUỲNH HOA Ngày 22/8/2025, tại trụ sở UNESCO Paris, trong khuôn khổ Hội nghị quốc tế “Bảo tồn di sản và Phát triển công nghiệp văn hóa” do Liên hiệp các Hội UNESCO Thế giới (WFUCA) và Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam (VFUA) tổ chức, bộ sưu tập áo dài “Lúa” của nhà thiết kế Lê Thanh Danh đã để lại dấu ấn sâu sắc, trở thành cầu nối đưa văn hóa Việt Nam vươn ra thế giới. Paris, một thoáng áo dài Sẽ thấy tâmhồnquêhương ởđó emơi.” (Ca khúc “Một thoáng quê hương”, nhạc Từ Huy, lời thơ ThanhTùng) Hồn quê Việt trên sàn diễn quốc tế Buổi trình diễn mở đầu bằng một thước phim đầy cảm xúc, đưa khán giả vào khung cảnh làng quê Việt Nam với những cánh đồng lúa chín vàng trải dài bất tận dưới ánh nắng tháng Tám. Tiếng gió thổi qua đồng lúa, tiếng chim ca và hình ảnh người nông dân tảo tần hiện lên sống động, hòa quyện cùng giọng đọc trầmấm, mộc mạc của nhà thiết kế LêThanh Danh – một người con của đất Đồng Nai. Những thước phim đẹp đẽ, gợi nhớ quê hương ấy đã khiến khángiả tại hội trường Room II – đặc biệt Nhà thiết kế Lê ThanhDanh, BàĐặngBíchLan chụpảnh lưuniệmtại Hội nghị Paris. Bà Anoa Suzzanne Dussol Perran, Đại sứ Du lịch Việt Nam tại Cộng hòa Pháp. Nhà thiết kế Lê ThanhDanh. NGAYNAY.VN 8 CHUYÊNĐỀ Số448 | ThứNăm, ngày 25/9/2025
diệnmột thiết kế trong bộ sưu tập “Lúa” trong Lễ đón Trung thu diễn ra tại Paris. Người Việt ở nước ngoài - Những sứ giả văn hóa Buổi trình diễn có sự góp mặt của những người mẫu đặc biệt, là bà Đặng Bích Lan - Hoa hậu Áo dài Phu nhân Châu Âu 2018 cùng các thành viên của Câu lạc bộ Di sản Áo dài – Liên hiệp Hội Phụ nữ Cộng hòa Liên bang Đức, những người đã tự bỏ thời gian, công sức và cả tiền bạc để có thể đến góp phần lan tỏa tinh thần dân tộc. Bà Bích Lan, với các danh hiệu như Hoa hậu Áo dài Phu nhân Châu Âu 2018, Phó Chủ tịch Câu lạc bộ Di sản Áo dài Châu Âu, và Chủ tịch Hội Phụ nữ Việt Nam thành phố Dresden, xúc động chia sẻ: “Khi khoác lên mình tà áo dài thuộc bộ sưu tập “Lúa” giữa lòng Paris, tôi không chỉ đang mặc một bộ trang phục mà còn mang trên mình cả một linh hồn của dân tộc. Trên sàn diễn của UNESCO Paris – nơi tôn vinh những giá trị di sản nhân loại, áo dài không chỉ là thời trangmà còn là tiếng nói của bản sắc, là thông điệp sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại. Trước ánh mắt tán thưởng của bạn bè quốc tế, tôi thấy“Lúa”– biểu tượng của quê hương - không chỉ hiện hữu trong từng họa tiết, mà còn thấm đẫm trong từng nhịp tim, từng sải bước.” Bà Đặng Bích Lan cũng bày tỏ niềm vui khi nhận được chứng nhận Sứ mệnh tiên phong trên Hành trình Di sản UNESCO 2025 từ Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam, ghi nhận sự đóng góp cho sự kiện và cho hành trình bảo tồn di sản: “Trái tim tôi như thắt lại vì hạnh phúc, vì xúc động, vì biết ơn. Không phải ai cũng có cơ hội đứng ở nơi này, và tôi biết mình đang sống trọn vẹn với sứ mệnh lan tỏa vẻ đẹp văn hóa quê hương.” Các thành viên khác của Câu lạc bộ Di sản Áo dài – Liên hiệp hội Phụ nữ Cộng hòa Liên bang Đức cũng chia sẻ những cảm nhận sâu sắc. Chị Bùi Hồng Hoa nhấn mạnh: Áo dài không chỉ là trang phục truyền thống, mà còn là linh hồn văn hóa Việt Nam. Để áo dài trở thành biểu tượng thời trang hiện đại được yêu thích toàn cầu, chúng ta cần kết hợp giữa giữ gìn bản sắc và đổi mới sáng tạo. Chị Bùi Thu Hiền bồi hồi: Thật tự hào khi được khoác lên mình chiếc áo dài phụ nữ Việt Nam, duyên dáng và đáng yêu khi những tà áo dài đó lại được khoe sắc giữa trời Âu, gợi nhớ những cánh đồng lúa xanh và bát cơm thơm ngát mùi hương, nhớ cả đến hình ảnh mẹ cha tần tảo để cháu con được những bát cơm đầy. Chị Cao Thị Hiền khẳng định: Ngay khi khoác lên mình áo dài, tôi lập tức cảm nhận được niềm tự hào dân tộc và sự kết nối với cội nguồn. Chính cảm xúc này thôi thúc tôi muốn chia sẻ và quảng bá áo dài đến với bạn bè quốc tế, để họ cảm nhận được văn hóa, lịch sử và tâm hồn người Việt. Trong khi đó, chị Trần Thị Loan tin tưởng rằng màn trình diễn bộ sưu tập “Lúa” của nhà thiết kế Lê Thanh Danh sẽ “như những hạt giống gieo và nẩy mầm trong từng thành viên Câu lạc bộ Áo dài Châu Âu cũng như khán giả tham dự Hội nghị”. Với các thành viên Câu lạc bộ Di sản Áo dài, buổi trình diễn chính là ngọn lửa thắp sáng tình yêu quê hương trong trái tim họ. Dù sống xa quê, mỗi bước chân trên sàn diễn, mỗi tà áo dài họ khoác lên là một lời nhắc nhở về cội nguồn, về những cánh đồng lúa, những buổi cơm chiều thơmmùi lúamới, và cả những ký ức tuổi thơ gắn bó với làng quê: “Thật mong sẽ có nhữngmùa vàng nối tiếp ở tương lai,” chị Loan bộc bạch.n Sự kiện tại Room II, Trụ sởUNESCOParis làmột cộtmốc trong hành trình bảo tồn và phát triển di sản văn hóa Việt Nam. Hội nghị đánh dấu lần đầu tiên Liên hiệp các Hội UNESCOViệt Namtổ chứcmột sự kiện quốc tế tại không gian biểu tượng củaUNESCO, nhân dịp kỷ niệm 80 nămthành lậpUNESCOvà 50 nămViệt Namgia nhập tổ chức. Sự hiện diện củaVFUA tại Room II phản ánh sự chủ động củaViệt Namtrong việc đưa tiếng nói văn hóa ra thế giới, từmột quốc gia từng tìmkiếmhỗ trợ hậu chiến đếnmột tác nhân kiến tạo chính sách văn hóa quốc tế. Bộ sưu tập “Lúa” của nhà thiết kế Lê Thanh Danh và sự gópmặt của cộng đồng người Việt ở nước ngoài, đặc biệt là các thành viên Câu lạc bộDi sảnÁo dài, đãminh chứng cho sức sống của áo dài - không chỉ làmột trang phụcmà còn là biểu tượng của bản sắc, sự kiên cường và sáng tạo của người Việt. Nhữnghọa tiết ấn tượng trọngbộ sưu tậpáodài “Lúa” của nhà thiết kế Lê ThanhDanh. Ekip thamquanParis. BàĐặngBíchLan, HoahậuÁodài PhunhânChâuÂu2018. Thật tự hào khi được khoác lên mình chiếc áo dài phụ nữ Việt Nam, duyên dáng và đáng yêu khi những tà áo dài đó lại được khoe sắc giữa trời Âu, gợi nhớ những cánh đồng lúa xanh và bát cơm thơm ngát mùi hương, nhớ cả đến hình ảnh mẹ cha tần tảo để cháu con được những bát cơm đầy. Chị Bùi Thu Hiền NGAYNAY.VN 9 CHUYÊNĐỀ Số448 | ThứNăm, ngày 25/9/2025
Từ ngày 19/9 - 12/10/2025, triển lãm“Bách Niên Hỷ Sự – Hành trình tìm về phong tục cưới hỏi trăm năm qua của người Việt” được tổ chức tại Chợ Quê – Emeralda Resort Ninh Bình. Đây không chỉ là một hoạt động văn hóa mà còn là lời mời gọi trở về với ký ức nghìn đời, nơi người trẻ hôm nay được tiếp nối và lan tỏa những giá trị đẹp đẽ từ cha ông. Người trẻ trở thành cầu nối văn hóa Điểm đặc biệt của “Bách Niên Hỷ Sự” không chỉ nằm ở việc tái hiện quá khứ, mà còn ở cách thế hệ trẻ chủ động bước vào hành trình này. Họ không đơn thuần quan sát di sản từ xa, mà trực tiếp nghiên cứu, sáng tạo và lan tỏa vẻ đẹp văn hóa qua những phương thức hiện đại: minh họa, triển lãm, thiết kế trải nghiệm. Khác với chủ đề quen thuộc xoay quanh nghệ nhân làng nghề, triển lãm lần này thể hiện rõ vai trò của người trẻ – những người đưa di sản vào đời sống đương đại, khiến truyền thống không bị lãng quên mà được sống lại trong tâm thức cộng đồng bằng một diện mạo mới mẻ, gần gũi và hấp dẫn. Việc tổ chức sự kiện tại Emeralda Resort Ninh Bình – vùng đất được mệnh danh là di sản kép của Việt Nam, nơi hội tụ cảnh quan thiên nhiên kỳ vĩ và lịch sử – văn hóa ngàn năm – càng làm nổi bật ý nghĩa của triển lãm. Giữa không gian làng quê Bắc Bộ yên bình, quá khứ và hiện tại giao thoa, để mỗi du khách vừa được nghỉ dưỡng, vừa được chạm vào mạch nguồn văn hóa Việt. Triển lãm là kết quả của sự kết hợp hài hòa giữa Emeralda Ninh Bình, Đông Phong và họa sĩ trẻ Phổ Ngạn – ba đại diện cho ba hướng đi quan trọng: Doanh nghiệp tiên phong, tổ chức nghiên cứu chuyên sâu và nghệ sĩ sáng tạo. Emeralda Ninh Bình mang đến không gian, hạ tầng và nguồn Trong tiết thu dịu dàng, triển lãm “Bách Niên Hỷ Sự” được tổ chức giữa lòng Ninh Bình, mảnh đất cố đô Hoa Lư hữu tình không chỉ tái hiện nghi lễ cưới hỏi trăm năm của người Việt mà còn khơi dậy cảm hứng để những giá trị văn hóa xưa sống dậy cùng thời đại và đi vào đời sống hôm nay. Đưa di sản vào đời sống HẢI MY lực để triển lãm không chỉ là một sự kiện văn hóa mà còn là trải nghiệm du lịch kết hợp nghỉ dưỡng, giúpcông chúng trong và ngoài nước tiếp cận giá trị văn hóa Việt một cách sống động và hấp dẫn. Đông Phong, hành trình nghiên cứu và phỏng dựng cổ phục suốt nhiều năm, cung cấp kiến thức nền tảng và chiều sâu học thuật, giúp tái hiện chính xác và trọn vẹn các nghi lễ, trang phục và sính lễ cưới hỏi. Phổ Ngạn, nghệ sĩ trẻ với lối vẽ dung hòa giữa hiện đại và cổ điển, đã thổi hồn mỹ thuật vào từng bức tranh minh họa. Toàn bộ minh họa trong triển lãm làminh chứng cho tâmhuyết ấy, khi quá khứ trở nên sống động và đầy cảm xúc dưới nét cọ của một người trẻ yêu văn hóa Việt. Sự kết hợp này thể hiện sự đồng lòng giữa cá nhân, tổ chức nhỏ và doanh nghiệp lớn trong việc giữ gìn, phổ biến và lan tỏa vẻ đẹp văn hóaViệt. Đó vừa là nhu cầu tự nhiên của những người Việt muốn lưu giữ truyền thống tốt đẹp, vừa là ước mong của lớp trẻ được nối bước cha ông, để di sản không ngủ yên trong viện bảo tàng mà sống cùng thời đại, sống mãi trong đời sống hiện đại của người Việt. Triển lãm “Bách Niên Hỷ Sự” dẫn dắt người xem qua nhiều không gian: Tư liệu ảnh – nền tảng nghiên cứu; nghi thức cưới hỏi ba miền với sự khác biệt về lễ nghi, trang phục, sính lễ, và khu trưng bày trang phục cưới được phỏng dựng công phu. Bức tranhminh hoạ đámrước dâu như một lời tổng kết lại hành trình vừa đi qua từ tư liệu, trang phục, nghi thức, sính lễ, giúp người xem có cái nhìn tổng quát về một đám cưới thời Nguyễn. Người xem được khám phá chuyện vui trămnămở cả ba miềnTổ quốc. Miền Bắc với NGAYNAY.VN 10 CHUYÊNĐỀ Số448 | ThứNăm, ngày 25/9/2025
đương đại lễ nghi chặt chẽ “tam thư, lục lễ” và đám rước trang trọng, ảnh hưởng sâu đậm của Nho giáo. Trang phục cưới miền Bắc nổi bật với chiếc nón dâu, cùng đôi guốc mũi cong đặc trưng. Miền Trung với nghi thức cung đình long trọng, nhưngtinh thần“trọng lễnghi, khinh tài vật”. Trang phục cưới miền Trung trang trọng trong bộ áo Nhật Bình. Miền Nam phóng khoáng, ít gò bó, coi trọng tình yêu đôi lứa và sự tự do lựa chọn. Trang phục cưới miền Nam cầu kỳ với chiếc áo tấc tay dài chạm đất cùng rất nhiều trang sức. Những nghi lễ, trang phục và sính lễ ấy không chỉ tái hiện ký ức trăm năm mà còn gợi mở cách thế hệ trẻ hôm nay có thể kế thừa và làm mới truyền thống, để những đám cưới hiện đại vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống của người Việt. Văn hóa – Nguồn lực mềm cho phát triển bền vững Trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên công nghiệp sáng tạo và hội nhập sâu rộng, văn hóa không chỉ là “căn cước dân tộc”mà còn trở thành nguồn lực mềm cho phát triển bền vững. Những di sản vật thể và phi vật thể, khi được gìn giữ và làmmớimột cách sáng tạo, có thể trở thành nguồn cảm hứng cho du lịch, giáo dục, và các ngành công nghiệp văn hóa, tạo ra giá trị kinh tế song song với giá trị tinh thần. Triển lãm “Bách Niên Hỷ Sự” là minh chứng cho xu hướng này: Doanh nghiệp tiên phong đầu tư, người trẻ đam mê nghiên cứu, và nghệ sĩ sáng tạo mỹ thuật đã cùng nhau biến văn hóa thành sức mạnh mềm – vừa bảo tồn di sản, vừa khơi dậy niềm tự hào dân tộc, vừa mở ra hướng phát triển bền vững cho tương lai. Triển lãm vì thế không chỉ là một cuộc hành hương về ký ức trăm năm, mà còn là lời khẳng định rằng văn hóaViệt có thể sống cùng thời đại nếu được tiếp sức bởi đam mê của người trẻ, tâm huyết của nghệ sĩ, và tầm nhìn của doanh nghiệp. Ởđó, Ninh Bình không chỉ là điểm đến du lịch nổi tiếng mà còn trở thành trung tâm sáng tạo văn hóa, nơi những nghi lễ, trang phục, sính lễ cưới hỏi xưa được tái hiện sống động, để công chúng không chỉ nhìn ngắmmà còn cảm nhận và thấu hiểu. Cũng là nơi để thế hệ hômnay thỏa sức sáng tạo, kế thừa di sản cha ông, đưa văn hóaViệt bay xa, để di sản không ngủ yên trong bảo tàng mà vẫn sống cùng nhịp thở thời đại. Trong bối cảnh đất nước vươn mình mạnh mẽ, những sự kiện như “Bách Niên Hỷ Sự” chính là minh chứng cho một Việt Nam tự tin, bản lĩnh, nơi truyền thống và hiện đại không loại trừ nhau mà cùng nhau làm giàu bản sắc dân tộc, kiến tạo sức mạnh mềm cho phát triển bền vững. n Triển lãm“BáchNiênHỷ Sự” làminhchứngchoxu hướng: Doanhnghiệp tiên phongđầu tư, người trẻ đammênghiêncứu, và nghệ sĩ sáng tạomỹ thuật đã cùngnhaubiếnvănhóa thành sứcmạnhmềm- vừa bảo tồndi sản, vừakhơi dậy niềmtựhàodân tộc, vừa mở rahướngphát triểnbền vữngcho tương lai. NGAYNAY.VN 11 CHUYÊNĐỀ Số448 | ThứNăm, ngày 25/9/2025
Đối với những người nghệ nhân Kiowa, mỗi đường kimmũi chỉ không chỉ là sự sáng tạonghệ thuật,mà còn là một sự tiếpnối thầmlặng, bền bỉ với di sản của những người phụ nữ của thế hệ đi trước. Từ cái nôi của những hạt cườm lấp lánh Kể từ khi còn là một đứa trẻ, cuộc sống của nghệ nhân Teri Greeves (55 tuổi) đã gắn liền với các tác phẩm thủ công tinh xảo của nghệ thuật đính cườm. “Thưở còn tấmbé, tôi được lớn lên cùng thế giới hạt cườm, từ chiếc nôi, túi đựng tã lót đến đôi giày nhỏ xinh, mọi thứ đều được đính cườm”, bà Greeves chia sẻ. Những chi tiết nhỏ bé ấy không chỉ cho thấy sự tài hoa của những người phụ nữ trong gia đình, mà còn khắc họamột tuổi thơ đầy ắp những giá trị văn hóa truyền thống, nơi nghệ thuật đính cườm là một phần không thể thiếu trong đời sống thường nhật của những đứa trẻ bộ tộc Kiowa. Sau dần, bà Greeves đã trở nên say mê và dấn thân vào con đường theo đuổi loại hình nghệ thuật truyền thống, và trở thànhmột nghệnhânđính cườmtài năng, dùng từngmũi kim để kể những câu chuyện văn hoá đặc sắc. Bà “đính” những câu chuyện lênmọi vật dụng, từ những đôi giày thể thao, chiếc ô cho đến những tấmda hươumềmmại, vàmỗi tác phẩm ấy đều mang một thông điệp riêng. Sự nghiệp của nghệ nhân Greeves chính là hành trình tiếp nối của di sản nghệ thuật được truyền lại qua nhiều thế hệ phụ nữ bản địa Kiowa, bao gồm cả người bà quá cố của mình. “Bà nội của tôi là một nghệ nhân đính cườm từng giành rất nhiều giải thưởng, nhưng chưa bao giờ tự nhận mình là một nghệ sĩ. Bà đã truyền rất nhiều cảm hứng cho tôi rằng: đính cườm giống như hơi thở, không thể tách nó ra khỏi con người của chính mình”, nghệ nhân Greeves tâm sự. Với những người nghệ nhân Kiowa như Teri Greeves, Dù sở hữu nhiều tác phẩm có mặt trong bộ sưu tập tại các bảo tàng danh tiếng như Bảo tàng Heard ở Phoenix, Bảo tàngBrooklynvà Bảo tàng Quốc gia Mỹ về người bản địa châu Mỹ, bà Greeves vẫn tự nhận mình là một nghệ nhân đính cườm thay vì danh xưng nghệ sĩ, giốngnhư cáchbà nội của mình đã làm. Quan điểm này không chỉ thể hiện sự tôn trọng của những người nghệ nhân thuộc thế sau đối với nghề truyền thống, mà còn là một tuyên ngôn về giá trị của những công việc thủ công, nơi tài năng và sự cống hiến được đặt lên trên những danh xưng mỹmiều. Tuổi thơ của Greeves gắn liền với Khu bảo tồn người da đỏWind River ởWyoming, nơi bà lớn lên trong cộng đồng người Shoshone. Mẹ bà, Jeri Ah-be-hill, từng quản lý một quầy hàng chuyên bán đồ thủ công truyền thống, nơi trưng bày các tác phẩm nghệ thuật đính cườm do người bản địa từ khắp nơi trên đất nước làm ra. Greeves đã có thời gian dài giúp mẹ bán hàng cho du khách, môi trường này lâu dần đã trở thành một “trường học nghệ thuật” đặc biệt mà bà không hề hay biết. “Tôi không nhận ra mình đã có một nền giáo dục nghệ các thế hệ đi trước đã kiến tạo nên thế giới của họ, tạo dựng bản sắc của bộ tộc bằng những hạt cườm thủy tinh. Những hạt cườm, chúng vốn được những người châu Âu mang đến vùng đất của họ như một món hàng để trao đổi, đã được người dân bản địa biến tấu thành công cụ để duy trì và thể hiện bản sắc văn hóa, trở thành một lời khẳng định thầm lặng về sức sống và sự bền bỉ của họ. Trong thế giới của nghệ thuật, có những loại hình hiếm khi có được “đất diễn” nhưng lại mang trong mình sức sống mãnh liệt và được nuôi dưỡng qua nhiều thế hệ. Nghệ thuật đính cườm của bộ tộc Kiowa, một cộng đồng người dân bản địa tại bang Oklahoma, Mỹ chính là một trong số đó. Nghệ thuật đính cườm - Tiếng NGỌC PHẠM (Theo NewYork Times) NghệnhânTeri Greeves. NGAYNAY.VN 12 CHUYÊNĐỀ Số448 | ThứNăm, ngày 25/9/2025
RkJQdWJsaXNoZXIy MTA3Mzg1MA==