Ngày Nay số đặc biệt Tết Quý Mão

Vàchiềunay,một chiềuhèbỏng rát 41 độcuối nămAdelaide, chanbát canh raungót tôi bỗng thèmvị nước cáyquêhương. CanhCáy rauNgót. SôngĐàoNamĐịnh. tháng trở thành văn hóa. Rất khó để mô tả với các con tôi về văn hóa cáy của vùng Sơn Nam Hạ nơi sản sinh ra rất nhiều cá nhân xuất chúng nhưng cũng không thiếu những con người hễ va với cái mới một chút là tụt vào hang. Tôi là một người như vậy, mang quê hương và kỷ niệm nặng như cái mai cáy trên lưng, và mỗi lần phải thay đổi lại là một lần muốn thụt vào dưới mái hiên phủ tím ánh chiều tà của chứa chan xưa cũ. Càng ở xa quê hương con người ta lại càng mong muốn phục hồi những kỷ niệm mà ngay khi còn ở đó, hầu như ít ai để ý. Cô em vừa mới sang định cư được ba tháng, đi cửa hàng Á Châu nào cũng hỏi tìm xương xông, lá lốt.“Không có cái đó, giỏ cáy. Có nhiều buổi tôi say sưa nhìn đám cáy hồng sập bẫy áo hồng. Rồi sau này, khi học cùng một lớp văn chỉ có chục người ở trường năng khiếu huyện, cú thương nhớ đầu đời cứ theo mãi tới hết thưở học trò. Không hiểu vì yêu tài văn chương hay tài câu cáy của nàng. * * * Ở gần vùng cửa sông Hồng đổ ra biển, nên những người dân quê tôi quá đỗi quen với chế biến và ăn những món ăn từ con cáy. Sinh thời bà ngoại tôi cũng là một người làm nước cáy rất ngon. Các cậu, các dì và cả tôi đều lớn lên mạnh khỏe xuôi cơm từ nước cáy bà ngoại ủ trong chum. Và có lẽ bà cũng trường thọ đến gần trăm tuổi (chính xác là 98) nhờ những vại tương chum cáy quê xưa. Nhưng sản vật gắn với những vùng đất qua năm khi nắng sớm nước cạn thường ra phơi mình ở chân sậy. Chúng luôn biến đi rất nhanh và hang cáy thì vô cùng ngóc ngách nên bọn trẻ chúng tôi chỉ biết nhìn thèm thuồng mà không bao giờ bắt được. Nhưng bọn cáy thua nàng Năm học lớp Sáu tôi mới biết tên cô bạn mà cứ mỗi lần nước ròng trước làng nhà ngoại lại một giỏ bên hông, một cần trên tay đi câu cáy. Nàng có biệt tài, hễ cứ cần và mồi thả xuống trước cửa hang là cáy sẽ bò ra cắp lấy cắp để, và nhanh hơn cáy, nàng đã nhấc vọt lên. Chỉ cần chân khẽ chạm vào hom giỏ, là con cáy phản xạ nhả mồi ra rồi thụt luôn vào dưới hom. Chỉ loáng một chốc cuối sáng, hay đầu chiều, lúc nắng vừa hoe lên âmấm, đôi chân trần trắng như bóc trên bờ cỏ héo vàng đã bắt đầy nhất là xương xông, những miếng chả hay tô canh cá không còn mùi gì của quê hương”, cô nói. Ông anh vừa qua tuổi nghỉ hưu, một buổi chiều hớt hải gọi thằng em còn đang miệt mài cày cuốc: “Chiều đi làm về sang anh ngay nhé”. Trên mâm cơm vừa dọn, bà chị bê ra một đĩa tú hụ rau dền và rau sam luộc kiểu tập tàng. Sơn hào hải vị của những người viễn xứ. Món rau không còn là rau. Nó là kỷ niệm, là thơ ấu, là quê hương. Nhiều lần tôi đã tự hỏi rằng mỗi khi bàn về một nỗi nhớ lớn hơn một chút so với nỗi nhớ người yêu cũ, thì các văn nhân và thi sĩ thường nhắc đến các món ăn, như vậy liệu có quá trần tục và ngược ngạo. Nhưng hóa ra chuyện đó lại là khoa học. Thứ hằn sâu nhất trong ký ức của con người, lại không phải âm thanh hay hình ảnh mà là mùi vị. Thật khó cho ai đã đi qua một chút mùi già, một chút hương lá dong phả khói hay một làn lam trầm tỏa nhẹ trên ban thờ chiều ba mươi có thể quên được đi mùi của Tết của Xuân xứ Bắc, dù có đi xa hơn bốn chục Xuân, dù có ở cách mưa phùn cả nửa vòng quay trái đất. Có những đêm đông lạnh lẽo thức dậy co ro lúc ba giờ sáng để chuẩn bị cơm cho cả ngày lao động tôi chợt nghe như là tiếng vọng đâu đây: “Tình dậy thổi cơm bố mẹ ăn còn ra đồng”. Hóa ra cái mùi cơm dịu dịu đưa tôi về hơn bốn chục năm bên bếp kiềng đôi và cái nồi gang vùi trấu. Cũng là mùa đông. Được gạch nối bằng hương vị của gạo nấu thật mong manh mà kéo dài ký ức đến thế. Nối cậu bé tám tuổi với người đàn ông đã đổi tóc mái đầu, nối Vân Đồn với Adelaide, nối cả mẹ cha đã khuất nơi mây mùa xa xanh thẳm. * * * Những người bạn tôi ở nơi viễn xứ, trước khi quyết định di cư hầu hết đều là những người tài giỏi về chuyên môn và đảm đang về gia chánh. Mỗi lần chúng tôi tụ tập, mà cũng không phải hiếm hoi, nhiều thì tuần vài bận, ít cũng tháng dăm lần, chỉ cần một người vào bếp cũng sẽ đủ hết các món ăn về hình thức không thua gì mâm cỗ Tết. Người Bắc có món Bắc, người Trung món Trung, người Nam cũng đủ hết món Nam, muốn gì cũng có. Gia vị và nguyên liệu trong thời buổi giao thương rộng khắp cũng rất cầu kỳ. Thế rồi khi tất cả bắt đầu nhập mâm sau khi không quên một cú wefie để cúng phây, thể nào chúng tôi cũng lại tần ngần vì thiêu thiếu. Cái thiếu thật khó mường tượng, khó định danh trên một thực tế đầy ngồn ngộn. Cho tới một hôm có ai đó ngậm ngùi nói ra “cỗ của chúng mình đầy đủ các món, chỉ thiếu mỗi mùi cỗ”. Thì ra ai cũng chở theo mình trên dọc dài hành trình viễn xứ một nỗi nhớ quê hương. Nỗi nhớ rất đầy bởi sự trống vắng của những mùi xưa cũ không có gì khỏa lấp. Và chiều nay, một chiều hè bỏng rát 41 độ cuối năm Adelaide, chan bát canh rau ngót tôi bỗng thèm vị nước cáy quê hương. n N G A Y N A Y . V N 53 VĂNNGHỆ

RkJQdWJsaXNoZXIy MTA3Mzg1MA==