Cõi Phật của Ngài tu tạo được mở rộng lớn, đẹp lạ vượt bậc, không bị suy đồi biến đổi. Suốt trong vô lượng kiếp lâu xa, ngài mãi vun trồng tích tập vô lượng vô biên đức hạnh của Bồ-tát” (Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Phật; những câu trong ngoặc kép đều trích từ ba kinh chính của Tịnh độ: Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Phật, Quán Vô Lượng Thọ Phật, và Tiểu Bản A-di-đà).
“Xá-lợi-phất! A-di-đà Phật thành Phật đến nay đã qua mười kiếp”.
Thành Phật là hoàn thành hai sự tích tập trí huệ và công đức, cho nên một vị Phật được xưng là Lưỡng Túc Tôn, bậc đầy đủ hai sự tích tập. Tích tập trí huệ trọn vẹn thì chứng đắc Pháp thân tánh Không một cách trọn vẹn. Tích tập công đức đầy đủ thì có Báo thân của một vị Phật.
Vì Pháp thân là tánh Không cho nên không thể nói Pháp thân Phật này to lớn hơn Pháp thân Phật kia, Pháp thân Phật này có trước Pháp thân Phật kia. Các kinh luôn luôn nói: “Pháp thân của tất cả chư Phật”.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói:
“Chư Như Lai là thân pháp giới (pháp thân), vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Thế nên các ông khi tâm tưởng Phật thì tâm ấy tức là 32 tướng, 80 vẻ đẹp nơi hình. Tâm ấy làm (niệm, quán) Phật, thì tâm ấy là Phật. Biển Chánh biến tri của chư Phật từ tâm tưởng sanh, thế nên hãy nhất tâm buộc niệm quán rõ Phật ấy”.
Với chư Phật, pháp thân thì đồng nhất, vô hạn vô biên, không thời gian nào không có, không không gian nào không có, trùm khắp tất cả không gian thời gian. Pháp thân ấy cũng là giải thoát và giác ngộ của chư Phật và cũng là Phật tánh vốn có sẵn tiềm ẩn của tất cả chúng sanh. Sự tu hành của đạo Phật là đạt đến Pháp thân ấy với những phương tiện pháp môn bề ngoài có vẻ khác nhau, qua những trung gian khác nhau. Sanh về Tịnh độ Tây phương là để tu chứng trọn vẹn Pháp thân này mà thành Phật. Sự chứng thánh, lìa khỏi sanh tử cũng là sự chứng từng phần Pháp thân ấy. Chín phẩm hoa sen của Tịnh độ Tây phương cũng là chín cấp bậc từ thấp lên cao trong Pháp thân ấy.
Chính vì Pháp thân của tất cả chư Phật là một, nên nhắm đến Phật A-di-đà là nhắm đến tất cả chư Phật. Pháp thân của chư Phật thì đồng nhất, sự khác biệt của chư Phật là ở Báo thân và Hóa thân, tức là những đại nguyện khi hành Bồ-tát hạnh, nên còn gọi là bổn nguyện. Báo thân của một vị Phật thì dựa trên nền tảng là Pháp thân chung, nhưng Báo thân của Phật A-di- đà được thành tựu bằng bốn mươi tám lời nguyện đã tạo ra Báo độ là cõi Tịnh độ Tây phương có sự gần gũi với chúng sanh cõi Ta-bà và nhiều đặc tính vượt bậc. Trên nền tảng trí huệ và công đức, tức bốn mươi tám lời nguyện, Ngài lập ra Tịnh độ, chủ yếu bằng quán tưởng: “Trải qua năm kiếp, Ngài suy xét nhiếp lấy những sự công đức trang nghiêm của các quốc độ chư Phật mà kiến lập Tịnh độ Tây phương”. Như vậy, Tịnh độ là cảnh giới của Pháp thân và Báo thân giác ngộ. Tịnh độ Tây phương là nơi trú ngụ của Ngài, nhưng tầm hoạt động của Ngài ở khắp pháp giới, không giới hạn nơi vị trí của Tịnh độ. Nói cách khác, với bốn mươi tám lời nguyện mở rộng khắp pháp giới, Tịnh độ của Ngài mở rộng khắp pháp giới.
Trên nền tảng Pháp thân tánh Không và Báo thân công đức đã tích tập trên con đường Bồ-tát, Ngài đã quan sát nghiên cứu các cõi Phật khác và đã tạo ra bằng cách quán tưởng Tịnh độ Tây phương của Ngài:
“Bấy giờ Tỳ-kheo Pháp Tạng nghe Phật Thế Tự Tại Vương nói về công đức của các cõi Phật, đều được thấy rõ, khởi phát các nguyện thù thắng vô thượng. Với các cõi thiện ác của trời người, các cõi nước thô diệu, tư duy rốt ráo, nhất tâm chọn lựa theo mong muốn kết thành đại nguyện. Sau đó tinh tấn chuyên cần, cẩn trọng giữ gìn, tu tập công đức, trải đủ năm kiếp. Đối với hai mươi mốt ức cõi Phật, các sự công đức trang nghiêm Ngài đều hiểu rõ, như một cõi Phật. Cõi Phật Ngài nhiếp trong tâm vượt hơn các cõi nước kia”.
Khi tu tập trí huệ và công đức đầy đủ, Ngài đi đến trước Phật Thế Tự Tại Vương phát bốn mươi tám lời nguyện mà khi thành Phật nếu những nguyện ấy không thành tựu thì Ngài chẳng trụ Chánh đẳng Chánh giác.
Bốn mươi tám lời nguyện ấy không chỉ dành cho những người ở cõi Cực lạc Tây phương hoặc mong mỏi sanh về Cực lạc Tây phương, mà còn dành cho chúng sanh và các bậc thánh ở tất cả các cõi khác. Lời nguyện ấy bao quát khắp vũ trụ, và vũ trụ chúng ta đang sống đây đều nằm trong những lời nguyện ấy, vì Đức A-di- đà đã thành Phật từ mười đại kiếp rồi. Tin rằng sinh hoạt hàng ngày của mỗi chúng ta đều nằm trong và thấm đẫm bốn mươi tám đại nguyện của Phật A-di-đà là bắt đầu bước vào cánh cửa của Tịnh độ.
Cụ thể trong bốn mươi tám nguyện, có mười sáu nguyện dành cho các chúng sanh và Bồ-tát ở “các thế giới của các Đức Phật ở khắp mười phương”.
Chẳng hạn, Lời nguyện thứ 33:
“Nếu khi thành Phật, các hạng chúng sanh trong khắp mười phương vô lượng chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật, bất cứ ai được quang minh tôi xúc chạm đến thân thì thân tâm người ấy trở nên dịu nhẹ hơn hàng trời người. Nếu chẳng được như thế, tôi không giữ lấy Chánh giác”.
Lời nguyện thứ 34:
“Nếu khi thành Phật, những chúng sanh trong vô lượng chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật ở khắp mươi phương nghe danh hiệu tôi mà chẳng chứng được Vô sanh pháp nhẫn và các môn Tổng trì sâu xa của Bồ- tát, tôi không giữ lấy Chánh giác”.
Người ở trong Tịnh độ Tây phương thì thông giao vô ngại với tất cả các thế giới.
Lời nguyện thứ 31:
“Nếu khi thành Phật, cõi nước tôi thanh tịnh, đâu đâu cũng đều soi thấy tất cả vô lượng chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật ở khắp mười phương, giống như gương sáng soi rõ mặt mày. Nếu chẳng được như thế, tôi không giữ lấy Chánh giác”.
Tóm lại, bốn mươi tám lời nguyện của Đức A-di-đà không chỉ thấu suốt cõi Tịnh độ Tây phương, mà tỏa ra xuyên suốt mọi thế giới, mọi cõi nước. Và tất cả mọi thế giới, mọi cõi nước đều đang ở trong bốn mươi tám lời nguyện của Đức A-di-đà, đang ở trong Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ của A-di-đà. Vô Lượng Quang là Pháp thân và Báo thân về mặt trí huệ. Vô Lượng Thọ là Pháp thân và Báo thân về mặt đại bi. Tất cả đang ở trong đại dương ánh sáng trí huệ và đại bi thấm khắp của Phật A-di-đà.
Kinh Hoa Nghiêm thường dùng chữ biển để chỉ chư Phật: biển đại bi, biển công đức, biển đại nguyện... Pháp thân và Báo thân của A-di-đà là biển ánh sáng vô lượng (Vô Lượng Quang) và cũng là biển đại bi vô lượng (Vô Lượng Thọ) mà những Bồ-tát từ sơ địa trở lên đã chứng từng phần Pháp thân mới thực sự trực tiếp kinh nghiệm. Các Bồ-tát chứng từng phần Pháp thân ấy, dù ở cõi nước nào, chẳng bao giờ lìa biển Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ của Đức A-di-đà.
Sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật là Hóa thân của Ngài ở khắp các cõi. Niệm sáu chữ ấy tức là từ Hóa thân đi vào Báo thân và Pháp thân của Ngài. Với các vị Bồ-tát trong Mười Địa, mỗi niệm Nam-mô A-di-đà Phật là một làn sóng sanh ra từ đại dương bổn nguyện và tan vào trong đại dương bổn nguyện. Nước hòa với nước, nước không thể phân chia, đây là sự niệm Phật chân chính.
Người ta chỉ bắt đầu thực sự niệm Phật khi biết rằng biển đại nguyện, biển Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ đang xuyên suốt qua cuộc đời mỗi chúng ta, xuyên suốt qua cái tôi vô hình mà vô cùng kiên cố, trong từng góc nhỏ khuất tối nhất, trong từng lỗi lầm trốn tránh uẩn khúc nhất. Niệm Phật là mở mình ra với đại dương ánh sáng vô lượng để ánh sáng chiếm lĩnh tràn vào những góc tối tăm của thân tâm. Niệm Phật là đi từng bước vào đại dương thọ mạng vô lượng và hòa cuộc đời của sanh tử phần đoạn và sanh tử biến dịch này vào đại dương của sự sống vĩnh cửu Vô Lượng Thọ.
Cho nên niệm Phật chính là sống. Sống trong ánh sáng vô lượng và trong đời sống vô lượng.