Đồng Nai: Khóa tu học Kinh Pháp Cú lần thứ 17, sâu sắc các bài pháp khai mở tâm cơ

Đồng Nai: Khóa tu học Kinh Pháp Cú lần thứ 17, sâu sắc các bài pháp khai mở tâm cơ

0:00 / 0:00
0:00
(Ngày Nay) - Chủ nhật ngày 03/08/2025 (10/06 nhuận) tại TV Phước Sơn (Phường Phước Tân) diễn ra khóa tu học Kinh Pháp Cú lần thứ 17 do Đại đức Thích Phước Hưng đảm trách.

Đến với khóa tu học Kinh Pháp Cú lần thứ 17, Đại đức Thích Phước Hưng đã giảng giải "Tóm lược thí dụ kinh Lõi Cây. Kinh Pháp Cú số 47, kinh Ái Sanh kết hợp với các KPC khác (trang 24-27).

Đồng Nai: Khóa tu học Kinh Pháp Cú lần thứ 17, sâu sắc các bài pháp khai mở tâm cơ ảnh 1

Về bản Kinh Lõi Cây, kinh này được Thế Tôn thuyết giảng khi xảy ra sự kiện Devadatta phá hòa hợp Tăng, đem 500 vị Tỳ Khưu đi Gayāsisa, vì Thế Tôn không chấp nhận cho Devadatta lãnh đạo hội chúng Tỳ Khưu. Đức Phật dạy có 5 hạng người xuất gia sống Phạm hạnh cùng một tâm nguyện giải thoát khỏi khổ đau, vượt ngoài sự chi phối của sanh già chết:

- Hạng thứ nhất là vị khi xuất gia, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng nên hoan hỷ, tự mãn và khen mình, chê người: "Ta được lợi dưỡng, danh vọng như vậy, còn các Tỳ Khưu khác ít được biết đến, ít biết có uy quyền", và mê say, tham đắm lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này nên mới phóng dật, rồi bị đau khổ. Ví như một người muốn tìm được lõi cây, mà khi đứng trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, lại bỏ qua lõi cây, giác cây (gỗ ngoài), vỏ trong, vỏ ngoài, chặt cành lá mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Vị Tỳ Khưu ấy được gọi là vị nắm lấy cành lá của Phạm hạnh.

- Hạng thứ hai là vị xuất gia không vì được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng mà khen mình, chê người nên sống không say mê, tham đắm, phóng dật, rồi thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức này, vị ấy khen mình, chê người: "Ta là người trì giới theo thiện pháp. Các Tỳ Khưu khác phá giới theo ác pháp", và mê say, tham đắm, phóng dật, rồi bị đau khổ. Ví như một người muốn tìm được lõi cây, mà khi đứng trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, lại bỏ qua lõi cây, giác cây (gỗ ngoài), vỏ trong, chặt vỏ ngoài mang đi, tưởng đó là lõi cây. Vị Tỳ Khưu ấy được gọi là vị đã nắm lấy vỏ ngoài của Phạm hạnh, và do vậy vị ấy đã dừng lại ở đây.

- Hạng thứ ba là vị xuất gia không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng mà khen mình, chê người, cũng không mê say, tham đắm, phóng dật, nên thành tựu giới đức. Khi đó, vị ấy hoan hỷ, nhưng không tự mãn, không khen mình, chê người hay mê say, tham đắm, phóng dật nên thành tựu Thiền định. Do thành tựu Thiền định này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn, khen mình chê người: "Ta có Thiền định nhất tâm. Các vị Tỳ Khưu khác không thiền định, tâm bị phân tán" và mê say, tham đắm, phóng dật, rồi bị đau khổ. Ví như một người muốn tìm được lõi cây, mà khi đứng trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, lại bỏ qua lõi cây, giác cây, chặt lấy vỏ trong mang đi, tưởng đó là lõi cây. Vị Tỳ Khưu ấy được gọi là đã nắm giữ vỏ trong của Phạm hạnh, và do vậy vị ấy đã dừng lại ở đây.

- Hạng thứ tư là là vị xuất gia không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng mà khen mình, chê người, cũng không mê say, tham đắm, phóng dật, nên thành tựu giới đức. Khi đó, vị ấy hoan hỷ, nhưng không tự mãn, không khen mình, chê người hay mê say, tham đắm, phóng dật nên thành tựu Thiền định. Khi đó, vị ấy hoan hỷ, nhưng không tự mãn, không khen mình chê người, không mê say, tham đắm, phóng dật nên thành tựu tri kiến. Khi đó, vị ấy hoan hỷ, tự mãn, khen mình, chê người: "Ta sống, thấy và biết. Các Tỳ Khưu khác sống, không thấy và không biết", rồi mê say, tham đắm, phóng dật nên bị đau khổ. Ví như một người muốn tìm được lõi cây, mà khi đứng trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, lại bỏ qua lõi cây, chặt lấy giác cây (gỗ ngoài) mang đi tưởng đó là lõi cây. Vị Tỳ Khưu ấy được gọi là đã nắm giữ giác cây của Phạm hạnh, và do vậy, vị ấy đã dừng lại ở đây.

- Hạng thứ năm là là vị xuất gia không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng mà khen mình, chê người, cũng không mê say, tham đắm, phóng dật, nên thành tựu giới đức. Khi đó, vị ấy hoan hỷ, nhưng không tự mãn, không khen mình, chê người hay mê say, tham đắm, phóng dật nên thành tựu Thiền định, rồi tiếp tục thành tựu tri kiến. Khi đó, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn, mà khen mình, chê người và không mê say, tham đắm, phóng dật nên vị ấy thành tựu phi thời giải thoát. Ví như một người muốn tìm được lõi cây, mà khi đứng trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lấy lõi cây mang đi và biết đó là lõi cây. Tâm giải thoát bất động chính là mục đích của Phạm hạnh, là lõi cây, là mục tiêu cuối cùng của Phạm hạnh.

"Phi thời giải thoát" có nghĩa là giải thoát tuyệt đối. Devadatta chỉ nghĩ đến danh vọng, lợi dưỡng nên muốn đức Phật nhường lại cho địa vị lãnh đạo hội chúng Tỳ Khưu. Và khi đức Phật từ chối, nên phá hòa hợp Tăng, lôi kéo 500 vị Tỳ Khưu cùng đi đến Gayāsisa với mình. Như vậy, đời sống phạm hạnh không phải vì lợi ích thành tựu lợi dưỡng, danh vọng; không phải vì lợi ích thành tựu giới đức, không phải vì lợi ích thành tựu Thiền định, không phải vì lợi ích thành tựu tri kiến. Chính tâm giải thoát bất động này là mục đích tối thượng của Phạm hạnh. Đức Phật khuyên các Tỳ Khưu không nên dừng lại ở các quả vị trung gian vì đây chưa phải là mục đích cứu cánh của Phạm hạnh.

Đồng Nai: Khóa tu học Kinh Pháp Cú lần thứ 17, sâu sắc các bài pháp khai mở tâm cơ ảnh 2

Kinh Pháp Cú số 47 trong Tích Chuyện Vua Vidūdabha (Lưu-ly) Trả Thù Họ Thích Ca Với tài nghệ xuất chúng, Hoàng tử Ba-tư-nặc sớm được vua cha truyền ngôi thống trị nước Kosala. Do mâu thuẫn trong hoàng tộc, hoàng tử Bandhuala thuộc vương quốc Mallas đến Xá-vệ nhờ sự giúp đỡ của vua Ba-tư-nặc (vốn là bạn trước đó). Nhà vua tiếp đón ông vào thành với vinh dự đặc biệt, và tấn phong chức thống lãnh quân đội. Sau đó, Bandhuala cho mời cha mẹ đến và ngụ luôn tại Xá-vệ. Sau khi thấy hàng ngàn Tỳ-khưu đi thọ thực về hướng nhà ông Cấp Cô Ðộc, tiểu Cấp Cô Ðộc, Tỳ-xá-khư,… Vua Ba-tư-nặc phát tâm thỉnh Phật và một ngàn Tỳ-khưu đến hoàng cung thọ thực. Vua trực tiếp, chu đáo dâng cúng bảy ngày đầu cho Phật và Tăng chúng. Vì chư Phật không bao giờ thọ thực thường xuyên một chỗ, nên các ngày sau, Ngài A-nanda dẫn Tăng chúng đến hoàng cung thọ thực. Trong bảy ngày, nhà vua đích thân sớt bát cho Tăng chúng. Ðến ngày thứ tám, vua xao lãng bổn phận, nên các vị Tỳ-khưu ít đến và bỏ đi. Cho đến một hôm, các Tỳ-khưu bỏ đi hết trừ Trưởng lão A-nanda. Vua biết được, giận dữ và đến ngay Phật để hỏi lý do. Ðức Phật không quy lỗi cho các Tỳ-khưu, mà cho rằng chính lỗi ở nhà vua. Rồi Ngài một gia đình thí chủ phải có chín điểm đủ tư cách thì các Tỳ-khưu mới đến và ngồi lại:

1. Họ đứng lên để gặp các Tỳ-khưu một cách vui vẻ.

2. Họ chào hỏi một cách vui vẻ.

3. Họ mời ngồi một cách vui vẻ.

4. Họ không giấu diếm những gì họ có.

5. Có nhiều, cho nhiều.

6. Có thức ăn thượng hạng, cho thức ăn thượng hạng.

7. Họ không cúng dường một cách vô lễ. Họ cúng dường một cách tôn kính.

8. Họ ngồi nghe pháp.

9. Họ nói chuyện với giọng hoan hỷ.

Sau đó, nhà vua vì muốn làm thân tộc với Đức Phật và lấy lại lòng tin của Tăng đoàn nên muốn cưới công chúa nước Thích Ca. Vì sợ làm mất lòng vua nước Kosala nhưng với tính cao ngạo, tự cho mình là giai cấp cao quý hơn, nên Vua Thích Mahānāma gả con gái rơi của mình (con của một tỳ thiếp) cho vua Ba-tư-nặc.

Mọi việc xong xuôi, công chúa được tấn phong hoàng hậu và nhanh chóng sinh ra hoàng tử Lưu-ly. Sau nhiều lần bị từ chối, năm 16 tuổi, Hoàng tử được mẹ chấp thuận về thăm bên ngoại với đoàn tùy tùng đông đảo và một lá thư dặn dò. Dù vậy, họ Thích vẫn đối xử với chàng lạnh nhạt nên vài ngày sau, hoàng tử Lưu-ly trở về. Cây kim trong bọc, lâu ngày cũng lồi ra. Một tỳ nữ lau chùi chỗ ngồi của chàng với nước và sữa, đã nói giọng khinh bỉ: “Ðây là chỗ ngồi của con trai nàng hầu”.

Một người lính bỏ quên thanh kiếm trở lại lấy, nghe hết lời cô tỳ nữ. Rồi anh ta loan tin trong quân đội làm náo động mọi người. Hoàng tử biết chuyện thề rằng: "Bây giờ họ Thích lau chỗ ngồi của ta bằng sữa với nước, khi lên làm vua, ta sẽ lau chỗ ngồi của ta bằng máu phun ra từ cổ họng họ Thích." Vua Ba-tư-nặc biết tin nên tức giận, truất phế hoàng hậu và hoàng tử tử, giáng xuống làm người hầu. Nhờ Đức Thế Tôn khuyên giải rằng thước đo địa vị xã hội quan trọng là gia đình người cha nên đức vua phục hồi vương vị cho vợ con.

Thống lãnh quân đội Bandhula có 32 người con trai đều dũng kiện, sức mạnh phi thường, thành đạt nhiều học thuật với hàng ngàn tùy tùng. Mỗi khi theo cha đến hoàng cung, sân chánh điện chật kín người của họ. Do được nắm mọi quyền hành, gây thiệt hại đến nhiều người khác, nên Bandhula bị vu oan rằng muốn chiếm ngai vàng. Vua tin lời họ nên bày kế trừ khử tất cả cha con nhà ông.

Hôm ấy, vợ ông là bà Mallikā mời hai đại đệ tử của Phật cùng năm trăm Tỳ-khưu đến nhà trai tăng. Dù biết nhận thư báo hung tin, nhưng bà vẫn thản nhiên, tiếp tục thiết đãi Tăng chúng ân cần, chu đáo. Sau khi trai Tăng xong, bà cho ba mươi hai nàng dâu biết chuyện và khuyên nhủ họ đừng quá đau buồn và oán hận nhà vua mà hãy xem đó là quả báo nghiệp ác đời trước của chồng con.

Gián điệp của vua nghe được, tâu lại nên vua cảm động vô cùng, đến gặp bà Mallikā xin bà và các con dâu tha thứ. Sau đó, bà và các con dâu về quê nhà họ. Để chuộc lỗi lầm, vua ban chức thống lãnh quân đội cho Dīghakārāyana, cháu của Bandhula. Do ôm hận vua đã giết oan chú mình nên nhân cơ hội vua vào thăm Đức Phật, Dīghakārāyana đã đem năm thứ biểu trưng vương vị về nước và giúp hoàng tử Lưu-ly lên ngôi vua. Vua Ba-tư-nặc đã chết khi đến thành Vương-xá để cầu cứu người cháu là vua A-xà-thế.

Sau khi cử hành tang lễ trọng thể cho vua cha, nhớ lại thù xưa, vua Lưu-ly dẫn một đoàn quân hùng mạnh tấn công nước Thích Ca. Thế Tôn biết được nên bay đến biên giới hai nước và ngồi xuống một gốc cây trơ trọi, ít bóng mát, bên vùng lân cận Ca-tỳ-la-vệ. Vua Lưu-ly ngạc nhiên tại sao Thế Tôn không ngồi dưới bóng mát cây đa bên nước Kosala khi trời quá nóng bức.

Thế Tôn nói rằng bóng mát của thân quyến mới làm Như Lai mát mẻ. Vua biết ý Thế Tôn muốn che chở dòng họ nên đảnh lễ Ngài, quay về Xá-vệ. Lòng thù hận họ Thích vẫn chưa nguôi, vua lại ra đi lần thứ hai, thứ ba, thấy Thế Tôn còn ở chỗ cũ, vua đành quay về. Ðến lần thứ tư, Phật quán sát thấy rõ ác nghiệp sát sinh, ném thuốc độc xuống sông. Phật liền dạy Pháp Cú số 47:

Người nhặt các loại hoa;

Ý đắm say, tham nhiễm;

Bị thần chết mang đi;

Như lụt trôi làng ngủ.

Tóm lược KINH ÁI SANH (Piyajātika Sutta)

Một thời, Đức Thế Tôn trú ở thành Savatthi, Jetavana, tại tinh xá Kỳ Viên của ông Anāthapiṇḍika (Cấp cô độc). Lúc bấy giờ, có một Phật tử khả ái, đáng thương, nhưng đau buồn, than khóc, bỏ ăn, bỏ việc vì đứa con một của ông bị mệnh chung. Khi ông đến than vãn, Đức Thế Tôn dạy rằng: “Sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái.”

Do ái sinh sầu ưu,

Do ái sinh sợ hãi,

Ai thoát khỏi tham ái,

Không sầu, đây sợ hãi.

Nhưng ông không hoan hỷ lời Thế Tôn dạy, chống báng lại rằng: “ Bạch Thế Tôn, hỷ lạc do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái”, rồi đứng dậy và ra đi. Sau đó, ông thuật lại chuyện gặp Đức Thế Tôn cho những người đánh bạc và được họ tán đồng với quan điểm cho rằng: “Hỷ lạc do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái”.

Và cuộc đối thoại ấy dần truyền đến tai vua Pasenadi xứ Kosala. Sau khi hỏi hoàng hậu Mallika về chuyện này, Đức vua không hài lòng khi hoàng hậu tin theo lời dạy ấy của Đức Thế Tôn. Rồi hoàng hậu bảo Bà-la-môn Nalijangha đến hỏi liệu rằng Thế Tôn có dạy: “Sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái”, và được ngài xác nhận như vậy. Đức Phật còn đưa ra vài trường hợp khổ đau khi sinh ly tử biệt giữa những người thân yêu để chứng minh lời dạy của ngài.

Sau khi được Bà-la-môn Nalijangha kể lại cuộc đàm thoại với Đức Phật, hoàng hậu Mallika lần lượt hỏi đức vua Pasenadi có thương công chúa Vajiri, Nữ Sát-đế-lị Vasabha, Tướng quân Vidudabha, hoàng hậu, dân chúng Kasi và Kosala hay không. Đức vua đều xác nhận thương yêu họ.

Nên hoàng hậu hỏi nếu một mai có một sự biến dịch, đổi khác xảy đến cho họ thì đức vua có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não hay không. Đức vua đều xác nhận rằng Có vì điều đó ảnh hưởng đời sống của vua. Rồi hoàng hậu nhấn mạnh nhiều lần rằng đó là lý do tại sao Đức Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói: "Sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái".

Nhờ vậy, đức vua Pasenadi đã tán đồng với hoàng hậu và ca ngợi, tán than Thế Tôn, rồi đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay vái Thế Tôn và nói lên ba lần lời cảm hứng sau đây:

"Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! ".

Trọn vẹn ngày tu học Kinh Pháp Cú, đại chúng rất hoan hỉ được thâm nhập những điều cốt tủy của mỗi câu kinh là một bài pháp truyền tải thông điệp sâu sắc cảnh tỉnh nỗi khỏi niềm đau của đời sống vô thường.

Được biết, ngày 07/09 sẽ diễn ra khóa tu học Kinh Pháp Cú lần thứ 18.

Cùng chuyên mục