Phật tánh và Bồ tát

Phật tánh và Bồ tát

0:00 / 0:00
0:00
(Ngày Nay) - Bồ tát được cắt nghĩa là hữu tình giác, một cụm từ đề chỉ cho Phật tánh trong tâm con người nói riêng được vùng dậy, vươn lên như củ sen được nấy mầm ra giữa lòng nước. Gọi Phật tánh vươn lên này bằng cụm từ "ngộ nhập Phật tri kiến" (hiểu và đi vào những điều thấy biết của Đức Phật) do nối kết được dòng điện lực Phật pháp vào tâm qua quá trình học và tu tập Phật pháp.

Vì thế mới gọi là “hữu tình giác”, tức là tâm con người được có tánh trí giác. Hữu tình chúng sinh được có tánh tri giác ở đây là con người, chứ không phải con hổ, con voi... Mặc dù các loài súc sinh ấy cũng có Phật tánh đúng như lời Phật nói: “tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”, nhưng tánh Phật của muôn loài súc sinh bị chôn vùi quá sâu kín dưới nhiều tầng lớp chủng tử súc sinh khi còn làm người đã tạo ra, do vậy loài súc sinh chỉ có sinh hồn, giác hồn là cái biết theo bản năng sinh tồn, chứ không có linh giác, linh tri, linh hồn như loài người. Con người mới có linh giác, linh tri nên con người được gọi là loài vật tối linh. Nhờ có linh giác, linh tri tối thượng, mà con người được biết nhiều thứ: tư duy, phân tích, khái niệm, so sánh tốt xấu, thương yêu, giận hờn, tham danh, dục vọng, chức quyền, nhân ngã... Qua đấy, ta thấy linh giác, linh tri con người chính là Phật tánh bị những thứ tặc Tham, Sân, Si trói chặt ở phía sau tấm màn vô minh, giống như người nhắc tuồng đứng phía sau tấm màn sân khấu để nhắc tuồng cho các nam, nữ diễn viên (đào, kép) ở phía trước sân khấu nói và diễn đúng tuồng. Có nghĩa là tâm con người đang trần tục, mặc dù vẫn biết hành hoạt mọi việc là do Phật tánh bên trong, nhưng đang bị vô minh nhận chìm sâu dưới đáy lòng.

Cũng như vậy, thân tâm con người nói riêng, biết nhiều cách sống trên vận hành mưu sinh đầy tham lam, gian ác để tồn tại, là nhờ Phật tánh ở sau màn vô minh như người nhắc tuồng, cho nên cái tâm biết nhiều cách sống gian ác đó được gọi là linh giác, chứ chưa phải Phật tánh hiển lộ. Khi nào Phật tánh trong tâm con người bừng dậy vươn lên bởi năng lực Phật pháp, thì tâm vô minh (thức A-lại-da) đầy tham, sân, si tuần tự bị lui dần vào hậu trường tâm thức và từ từ mất dạng. Phật tánh phát triển, vô minh tan biến theo quy luật ánh sáng có mặt, bóng tối không còn, đó là thời điểm tính chất Bồ-tát được thành hình trong tâm người tu tập theo dấu đạo vô ngã gần nửa chặng đường giác ngộ, theo nghĩa giác ngộ là nhận thức ngược lại trước đây, những gì mình thấy, như thấy bản thể vạn hữu là thường, nay được thấy vô thường, do vì vô ngã, nên mới gọi là “hữu tình giác”; đúng là hễ có tu tập đúng Chánh pháp, thì chủng tử Phật tánh từ đáy lòng vươn lên, ra hoa, kết trái giác ngộ; như chủng tử hoa sen kia, vốn cùng lúc có cả hai hoa và quả trong đó, gặp đủ nhân duyên tốt, hoa và quả đồng nẩy nở hẳn ra trong ao bùn nước đọng. Hoa giác ngộ và quả Bồ-tát của người tu tập được có cùng lúc ở đây là tại hai nấc thang nhị địa và tam địa của cái thang giác ngộ có mười nấc tu chứng do Đại sư Trí Giả tông Thiên Thai lập chung cho ba thừa Thanh văn, Duyên giác và Bồ- tát theo quan niệm, rằng thừa nào rồi cũng phải đến Phật thừa toàn giác theo lý tính vô ngã tồn tại trên vận hành Bồ-tát đạo là định hướng tiến bước.

Tánh giác nhị địa thấy tánh Phật nơi tự thân (tánh địa). Tánh giác tam địa thấy được thật tướng vô ngã của vạn pháp, mà tâm không bị dao động, chán nản (bát nhẫn địa) do vận dụng trí tuệ đang có quán chiếu vào bản thể vũ trụ và bản thể mình sau khi qua nấc thang nhất địa (càn tuệ địa) của thuở ban đầu mới tu tập, trí tuệ trong tâm chưa được rực sáng, còn khô cạn.

Tiến trình quán chiếu của người tu tập ở nấc thang tam địa được xem là căn bản, vì có thiết lập tám bước quán ngộ để tánh tri giác được tiến dần lên bốn nấc thang giác ngộ kế tiếp ở quá nửa chặng đường tu tập.

Bốn bước đầu tiên quán chiếu về khổ, tập, diệt, đạo tại cõi dục. Bốn bước kế tiếp, cũng quán về khổ, tập, diệt, đạo ở hai cõi sắc và vô sắc.

Bốn nấc thang giác ngộ mà người tu tập đã được bước lên đó, là nấc thang thứ tư sơ quả Tu-đà-hoàn do kiến đạo tích vô ngã nên mới gọi là hữu tình giác. Do ý muốn giác ngộ tiếp, không muốn tái sanh trở lại thế gian, nên tiến bước đến nấc thang thứ năm là bạc địa, địa vị gần kề bờ giải thoát do đang tuần tự dứt trừ các căn bản phiền não cõi dục, đó là quả vị Tư-đà-hàm. Nấc thang thứ sáu ly dục địa, địa vị đang bước ra cõi dục do đãdứtsạchcácgốcrễphiềnnãoởbacõidục,sắcvàvô sắc qua quá trình quán ngộ ở tám bước, đó là quả vị vô sanh (A-la-hán). Mức độ giác ngộ của A-la-hán ở đây vẫn là tự giác (hữu tình giác) chưa giác tha (giác hữu tình).

Theo lý thuyết của Bồ-tát là Hữu tình giác, tức là con người ở bất cứ thời xa xưa cổ đại hay hiện đại, hễ có tu tập Phật pháp ở giai tầng nào là có trí tuệ giác ngộ tại giai tầng đó. Sự giác ngộ ở mỗi địa vị, giai tầng như vậy được gọi là phần giác, tức là giác ngộ từng phần, nên mới có cấp độ Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Riêng Thanh văn có bốn cấp độ giác ngộ từng phần, đó là Tu-đà-hoàn, Tư- đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. Trong mỗi địa vị Thanh văn như vậy, cũng có giác ngộ từng phần do tu một pháp Tứ đế, đồng thời cũng tu nhiều pháp liên hệ.

Giác ngộ nghĩa là “Bồ-đề”, nhưng giác từng phần. Từng phần là “Tát-đỏa”. Hai cụm từ Bồ-đề và Tát-đỏa luôn luôn đi đôi với nhau. Người có hai thứ Bồ-đề và Tát- đỏa trong tâm được gọi là Bồ-tát chứ không phải ai đâu xa. Bất cứ hạng người nào hễ có tu tập Phật pháp là phải có giác ngộ từ tiểu giác, trung giác và đại giác. Thời gian được giác ngộ không hạn định là bao giờ. Khi nào tâm hành giả hội đủ ba điều kiện ắt phải có, đó là Giới, Định, Tuệ, không thiếu không dư, đủ để giác ngộ, đúng như lời thơ của Hòa thượng Phúc Hậu: “Kinh điển lưu truyền tám vạn tư, Học hành không thiếu cũng không dư. Năm nay tính lại chừng quên hết. Chỉ nhớ trên đầu một chữ Như”.

Chữ Như có nghĩa là Như Lai, Phật, tỉnh thức, tánh tri giác... Người được giác ngộ từ tiểu giác, trung giác và đại giác (Phật) đều có bốn trí tuệ (Thành sở tác trí, Diệu quan sát trí, Bình đẳng tánh trí, Đại viên cảnh trí) là những ngọn đèn sáng soi để thấy thật tướng của vạn pháp là vô ngã. Từ đó phát khởi lên những ý niệm muốn thành Phật, muốn thoát ly sinh tử, muốn trở lại cõi người để hóa độ chúng sinh, vì muốn cho tất cả chúng sinh thành Phật... Những ý muốn đó gọi là phát Bồ-đề tâm. Được như vậy chính là do từ bi và trí tuệ thúc đẩy theo quy luật tự nhiên “thử hữu cố bỉ hữu” (cái này có thì cái kia có). Tính chất vi diệu của Phật pháp là ở chỗ ấy. Phật tánh trong tâm người Phật tử biết tu tập, khi được phát triển vươn lên ở mức độ nào là có trí tuệ giác ngộ, là có phát Bồ-đề tâm, ở mức độ đó. Sẽ có, chứ đừng sợ không có, chỉ sợ mình không tinh tấn, siêng năng, cần mẫn.

Với hàng Thanh văn, chỉ có hữu tình giác, tức là tự giác, không có giác hữu tình, tức là không giác tha. Nên Bồ-đề tâm của họ chỉ là ý niệm tự lợi mong muốn mình được thoát ly sinh tử, chứ không có ý niệm muốn cho tất cả chúng sinh được thoát ly sinh tử như mình. Tất cả giai do trí tuệ của họ ở cấp Thành sở tác trí và Diệu quán sát trí, chưa đến Bình đẳng tánh trí, Đại viên cảnh trí. Cho nên vừa mới đến địa thứ tư Diễm tuệ địa (trí tuệ rực rỡ) thuộc mười địa của Hoa Nghiêm, và địa thứ bảy thuộc cái thang mười tầng tu chứng A-la-hán, Thanh văn đã cảm thấy mình được tột đỉnh, nên vào Niết-bàn Hữu dư y, Niết-bàn đã chấm dứt phần đoạn sinh tử, không hay biết gì đến Niết-bàn Vô dư y Phật thừa!

Vì thế trong giờ phút Đức Thế Tôn sắp sửa nói kinh Pháp Hoa chính thức sau khi nói lý do hiển thật về Phật thừa, thì năm nghìn Tỳ-kheo Tăng và Ni ở địa vị A-la- hán (Thanh Văn) lần lượt rời khỏi đạo tràng là như vậy.

Bồ-tát của các hàng Duyên giác (Bích chi Phật) và Bồ- tát thực thụ, là Bồ-tát có cả hai hữu tình giác và giác hữu tình, tức là có tự giác và giác tha, cho nên phát Bồ-đề tâm của hai bậc ấy là mong muốn mình và tất cả chúng sinh đều được giác ngộ thành Phật. Mà như thế, phải tự dấn thân vào xã hội con người để thực hành Bồ-tát đạo bằng lời nói từ bi và các việc cứu giúp chúng sinh trên cơ sở vật chất và hóa độ chúng sinh bằng Phật pháp, đồng thời bên cạnh đó cũng tiếp tục tu tập Phật pháp trước khi tiến đến ngôi vị toàn giác Phật thừa.

Khế lý Bồ-tát đạo mà hàng Duyên giác, Bồ-tát phải tri hành là ở ba địa vị tám, chín và mười còn lại của cái thang mười giai tầng tu chứng sau khi đã đạt được địa vị giác ngộ số bảy dĩ diện địa (đã hoàn tất) và số bốn diễm tuệ địa (trí tuệ rực rỡ) mà tiến lên những địa kế tiếp (Nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ và Pháp vân) theo cách thiết lập của Phật trong kinh Hoa Nghiêm.

Thật sự những danh từ Thanh văn, Duyên giác, Bồ- tát là những tên gọi, để chỉ cho những hành giả tu tập Phật pháp phải được giác ngộ từng phần, để làm cơ bản đến giác ngộ toàn phần Phật thừa là điều ắt phải, nếu hành giả muốn thoát ly hẳn sinh tử. Vì thế Đại sư Trí Giả đã thiết lập mười giai tầng tu chứng là như vậy. Và cũng vì thế Đức Thế Tôn đã nói ra vô số pháp môn tu tập khác nhau, để chúng sinh theo đó mà tu tập được giác ngộ từng phần, rồi tiến đến toàn phần giác ngộ Phật thừa, chứ giáo pháp của Phật không có Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, tiểu, đại thừa gì hết, chỉ có đại giác ngộ thành Phật là tối thượng.

Sở dĩ Đức Thế Tôn thuyết ra nhiều thứ kinh qua năm thời suốt bốn mươi lăm năm như vậy, chỉ là phương tiện nhắm vào sự dắt dẫn vô số chúng sinh (loài người) có nhiều căn cơ, hoàn cảnh khác nhau đi qua từng bước nghe pháp, hiểu và thực tập Phật pháp để lần lượt được giác ngộ từng phần rồi đến toàn phần, chứ không thể nào một lần mà được toàn giác thành Phật! Cho nên Phật mới thuyết giáo pháp về Nhân, Thiên, Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát thừa; chính là cách khai quyền hiển thật, để trợ duyên cho Phật tánh của con người có căn cơ khác nhau được khơi dậy ở giữa những chặng ấy, từ xe nhỏ qua xe trung, là nền tảng đến xe lớn toàn giác thành Phật do Đức Phật đã ngộ được “chủng tử Bồ-đề” của nhiều tầng lớp con người, cho nên phải cần nhiều nhân duyên quyền trí, phương tiện trí, căn bản trí, thì chủng tử Bồ-đề của từng cá nhân Phật tử mới có thể hiển lộ. Bồ-đề được hiển lộ, là do Phật tánh vươn lên cao độ theo quy luật tỷ lệ thuận. Từ đó, Bồ-đề nguyện cũng theo đó mà phát sinh ra những hành động Bồ-tát đạo đối với chúng sinh một cách tích cực không mệt mỏi. Khế lý Bồ-tát và Bồ-tát đạo được thấy trong toàn bộ kinh Pháp Hoa.

Với hàng trí thức Phật giáo từ xưa và thực tại ở bất cứ quốc gia nào có Phật giáo hiện hữu đều cùng có một nhận thức như trên. Một nhà Phật học Nhật Bản, ông Kimura Taiken đã nói: “Kinh Pháp Hoa được phát huy toàn bộ đặc sắc về Bồ-tát đạo, coi hết thảy mọi chủng tộc con người trong bốn phương trời Đông, Tây đều là Bồ-tát, bạn lữ, bà con, quyến thuộc với ta, ai cũng có khả năng thành Phật trong tương lai”.

Đích thực, chư Phật thị hiện ra nơi đời, chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn duy nhất, đó là khai thị cho tất cả chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến thành Phật bằng giáo pháp khai quyền hiển thật.

Quả nhiên, với Đức Thế Tôn, bằng tâm đại bi, Ngài đã thấy rõ từ lâu những quả vị mà hằng ngàn Tỳ-kheo tu tập đã chứng đắc trong những lần Phật nói nhiều giáo pháp khác nhau trước khi Phật nói Pháp Hoa, chỉ là phương tiện khai quyền đưa đến quả vị toàn giác Phật thừa, chứ chưa phải Phật thừa. Bởi vì quả vị chứng đắc trong các thừa trước đó vẫn còn vô minh vi tế trụ địa bám chặt trong nội thức, là năng lực biến dịch sinh tử từng sát-na, chưa thoát ly hẳn sinh tử. Chỉ có quả vị Phật thừa mới thật sự dứt bặt cả hai phần đoạn sinh tử và biến dịch sinh tử, đúng như lời Bồ-tát Văn-thù nói với Bồ-tát Hiền Thủ: “Hết thảy chư Phật chỉ bằng một thừa duy nhất mà thoát ly hẳn sinh tử, đó là Phật thừa”.

Vì thế, với tâm đại bi, Đức Thế Tôn muốn cho tất cả hàng ngàn Tỳ-kheo đệ tử Phật lúc bấy giờ cũng như Tăng, Ni, nam nữ Phật tử VN hiện nay hay mai hậu, cùng chứng đắc quả vị Phật thừa bằng tri hành giáo pháp Bồ-tát đạo trên mọi nẻo đường cứu khổ độ sinh, nên Đức Thế Tôn trước khi nhập Niết-bàn (nhập diệt), Ngài đưa ra phương tiện hiển thật Phật thừa qua khế lý kinh Pháp Hoa, giáo pháp chứa đựng đa số Bồ-tát nguyện, Bồ-tát hạnh, và những phương pháp, cách thức tu tập thoát ly hẳn sinh tử cho những ai mong muốn lên ngôi vị đại giác Phật thừa, ngôi vị không còn sợ hãi biến dịch sinh tử bằng đôi chân từ bi, trí tuệ rảo bước khắp chốn dân gian; nơi có nhiều hình ảnh chúng sinh đang bị áp bức, bạo hành, thù địch, khổ lụy đầy nước mắt, chết chóc, đói khát... mà cứu khổ bằng vật chất hiện thực, cùng với lời an ủi, vỗ về, để cho bản thân con người tạm thời được ly khổ, đắc lạc, sau mới đến phần đoạn hoặc, chứng chân bằng Phật pháp. Đó là hàng Bồ-tát thật sự đi hành động Bồ-tát đạo vào đời. Hay nói khác hơn “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”. Có dấn thân cứu khổ con người trong mọi giai tầng xã hội nơi xứ mình, không cần đâu xa, thì mới có thể thấy đạo mà hành đạo.

Đề tài Phật tánh và Bồ-tát, được biên soạn ra, là dành riêng cho hai chúng Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đệ tử Phật tại gia cư sĩ Việt Nam trong mọi giai cấp xã hội, dù ở phương trời Đông, Tây nào cũng có thể tiếp nhận vào tâm ý, để học hỏi mà tỏ tường lý, nghĩa của Phật tánh và Bồ-tát. Nếu vị nào đã khởi tâm đến với đạo Phật để tìm cầu cho mình con đường giải thoát sinh tử, luân hồi qua nhận thức đạo Phật là con đường giải thoát, thì nên tiếp nhận đề tài trên, mà làm kim chỉ nam trên vận hành học hỏi và tri hành, thực tập ở mọi nơi chốn, chứ không riêng gì tại chùa, tại nhà. Bất cứ nơi đâu, trên mọi nẻo đường tại thế gian, tất cả đều là đạo tràng trang nghiêm, thanh tịnh, khi lòng mình an tịnh, luôn tỉnh thức, thì các sắc trần chung quanh không thể chi phối, lay động tâm mình, chính là năng lực ngộ lý, thấy Đạo, hành theo Đạo, để đạt Đạo.

Tin bài liên quan
Cùng chuyên mục