Tu tuệ là như thế nào?
Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích.
Đây chính là Tu tuệ.
Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ.
Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần:
Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu.
Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học.
Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ.
Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ.
Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến.
Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí vô sư?
Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy.
Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy.
Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ.
Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát.
Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử.
Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí.
Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu.
Đó là hai phần hết sức rõ ràng.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi.
Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình.
Tại sao?
Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao?
Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh.
Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh.
Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng.
Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường.
Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận.
Nhận để chi?
Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.
Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp, thật ra chúng ta nhận nợ.
Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.
Trả nợ có hai cách:
Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ.
Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy.
Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó.
Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp.
Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình.
Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm.
Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không?
Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ.
Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ.
Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.