Đức Phật khai ra Tam thừa là phương tiện để hướng dẫn mọi người ở mọi trình độ khác nhau, cho nên chia làm ba là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Thanh văn thừa dành cho người chỉ thích tu, không thích làm gì, Đức Phật mới nói về cách tu. Duyên giác thừa dành cho người chỉ thích học, thích nghiên cứu, không quan tâm đến vấn đề tu, Đức Phật nói về cách hiểu biết. Hạng thứ ba muốn cứu nhân độ thế, muốn xây dựng một xã hội tốt gọi là Tịnh độ, Đức Phật mới nói Bồ-tát thừa.
Thực sự Đức Phật tùy theo hiểu biết, theo mong muốn, theo khả năng của người mà Ngài dạy pháp tương ưng giúp họ thực tập được và có kết quả tốt. Nhưng các pháp gọi là Tam thừa dành cho ba hạng người này, tới thời Pháp hoa, Phật nói chỉ có một thừa thôi. Đó là con đường đi suốt từ phát tâm Bồ-đề cho đến ngày thành Phật tất cả những người đi trên lộ trình Nhứt thừa này đều gọi là Bồ-tát. Như tất cả Phật tử phát tâm tu theo Phật cũng gọi là Bồ-tát, nhưng kinh Pháp hoa gọi là Bồ-tát mới phát tâm, nghĩa là mình có lòng thương người, thương vật, nhưng mục tiêu cao nhất là tu hành để thành Phật để cứu độ chúng sanh. Đó là một con đường duy nhất mình đi từ đầu tới đích, nhưng Bồ-tát mới phát tâm có việc biết rồi, có việc làm được, cũng có việc chưa biết, chưa làm được, nên có khi họ tốt, có khi không tốt, phạm sai lầm.
Vì chỉ là Bồ-tát mới phát tâm, nên không biết sự thật, mình chỉ thấy bề ngoài khổ sở liền thương, nhưng họ là người giả dối mà mình thương và cưu mang họ, coi chừng chuốc họa vào thân, sau này lại bất mãn, bỏ cuộc.
Có nhiều vị học rất giỏi, nhưng ít tu, nên không đắc đạo. Nhưng có vị học ít, nhưng họ tu, nên đắc đạo, vì có tu mới phát huệ, mà đạo Phật chủ trương giới, định, huệ là việc chính của người tu. Có đạo đức là tu giới rồi, tâm mới định tĩnh và phát huệ mới nhìn thấy sự thật của cuộc đời.
Đức Phật dạy phải thấy biết cho rõ việc nên làm, hay không nên làm. Điển hình như ngài Huyền Trang học rất giỏi và có lòng thương người, giúp người mà ông mắc tới 81 nạn. Ông tu thiệt, nhưng vì học và chuyên nghiên cứu, muốn biết thôi. Vì vậy, ông mới lặn lội từ Trung Hoa sang Ấn Độ cầu pháp, mất 17 năm. Đây là sự thật, trên đường di, ông gặp biết bao tai nạn. Do lòng thương người của ông nhưng thiếu trí tuệ, cho nên ông cứ lầm ma quỷ giả ra những việc đáng thương tâm, mỗi lần ông cưu mang là ông đều dính bẫy của ma.
Và khi lầm người như vậy, mình nghĩ không tu nữa. Nhưng thấy một người giả sư, mình lại nghĩ tất cả sư là giả thì sai rồi.
Đức Phật bảo mình nhìn cho kỹ, người nào tu thiệt thì mình hợp tác cùng tu, người nào tu giả, mình loại họ ra khỏi tâm mình, tức không quan tâm đến việc của họ, mình lo việc của mình.
Vì vậy, Bồ-tát của Nhứt thừa là từ địa ngục A-tỳ đến Phật, trải qua mười cấp bậc gọi là tứ Thánh, lục phàm. Bồ-tát trong lục phàm gặp người tốt thì phát tâm, gặp người xấu thì thối tâm, cho nên vẫn ở trong sanh tử của lục phàm. Nhưng qua tới tứ Thánh mới lên được luôn. Tứ Thánh là Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật ra ngoài sanh tử, không bị dính mắc với sanh tử nữa, vì họ biết rồi, giả cách nào, họ cũng biết. Thí dụ đối với ông Tề Thiên Đại Thánh, ma quỷ giả dạng gì, ông cũng nhận ra.
Riêng tôi luôn cố gắng nhận ra đối tác của mình là thật hay giả. Họ thật tới mức nào và họ giả tới mức nào để mình khỏi mắc lầm. Tôi hành đạo được đến ngày nay là nhờ kỹ, cố nhận ra được cái thực của đối tác. Kinh Pháp hoa dạy mình nhận ra bằng cách nào?
Một người đến, đầu tiên mình nhìn tướng bên ngoài của họ, nhìn cử chỉ của họ, nghe lời nói của họ. Hành động và lời nói rất quan trọng. Lời nói phát xuất từ trong lòng họ khiến mình thấy họ không thật tâm. Đức Phật nói do tâm bên trong mà sanh ra tướng bên ngoài. Ý này được kinh Pháp hoa ghi nhận rằng như thị tướng, như thị tánh, phải nhìn tướng bên ngoài để biết tánh bên trong và biết tánh họ rồi, kinh dạy phải suy xét tiếp theo là như thị thể, như thị lực, như thị tác…, tức là nhận ra cái gốc của họ là gì, dẫn đến việc làm mà họ đề nghị sẽ xảy ra như thế nào. Quán sát như vậy sẽ phát hiện ra người không ngay thật thường thể hiện qua ánh mắt láo liêng, gian xảo. Cho nên Đức Phật dạy mình phải quan sát bề trong để không vướng vào tai họa.
Trở lại vấn đề Bồ-tát nhân gian là Bồ-tát ở trong loài người. Còn Bồ-tát mười phương đã học rồi, là từ sơ phát tâm đến Phật có mười cấp bậc Bồ-tát ở trong những loại hình thế giới khác nhau. Bồ-tát cấp bậc thấp nhất mới phát tâm ở trong nhân gian là loài người, thì bây giờ mình tìm Bồ-tát ở trong cuộc sống này, họ đang sống với mình để kết hợp làm bạn tu hành.
Đức Phật dạy ở trong loài người có đủ thập giới, từ địa ngục A-tỳ cho đến Phật. Cho nên, cũng có Phật sanh vào loài người như Đức Phật Thích Ca đã thành Vô thượng Đẳng giác, vì thương nhân gian mà Ngài sanh lại làm người, tất nhiên trong con người của Ngài đã có Phật, nhưng ít ai thấy được như vậy. Người ta chỉ thấy Đức Phật Thích Ca là thái tử, là Sa-môn Cù Đàm ôm bát đi khất thực, vì nhìn hình dáng bên ngoài, Ngài giống mọi người. Nhưng trong lúc đó, tiên A Tư Đà thấy thái tử mới ba ngày tuổi, mà đã thấy bên trong thái tử có ông Phật.
Tu theo kinh Pháp hoa, mình nhìn tất cả mọi người đều có ông Phật tiềm ẩn bên trong. Ngay như những người muốn lợi dụng Phật giáo, họ cũng có ông Phật bên trong là Phật tâm. Vì họ thấy Phật được nhiều người kính trọng, cho nên họ cũng giả Phật luôn. Thực tế là có những người tu giả. Phật nói nếu mình biết giáo dục những người tu giả, về sau họ ngộ ra thì cũng trở thành người tu thực.
Trong Phật giáo có các vị cao tăng như Tổ Huệ Đăng của tông Thiên Thai. Ngài hoạt động trong phong trào Cần Vương chống Pháp, khi phong trào này bị tan rã, ngài vào miền Nam, trốn vô chùa. Đi làm cách mạng, thất bại, ngài mới vô chùa ẩn náu, không phải đi tu, nhưng vô chùa, nhìn thấy đạo đức của Hòa thượng Hải Hội, ngài mới phát tâm, đọc kinh, tìm hiểu, từ đó mới hết lòng tu, sau ngài cũng đắc đạo, ngộ đạo. Ban đầu là tu giả, nhưng sau thành tu thiệt.
Vị thứ hai là Tổ Phi Lai cũng là nhà cách mạng ở Quảng Nam trốn vô Gia Định ở chùa Giác Lâm, Giác Viên công quả. Ngày ngày đọc kinh Phật, lần lần ngộ ra, hiểu được mà quyết tâm tu, ngài đắc đạo. Tổ Phi Lai cũng nổi tiếng ở miền Tây.
Tại sao từ nhà cách mạng trở thành nhà tu? Vì Việt Nam bị Pháp đô hộ, đời sống người dân quá khổ, mà các tỉnh miền Trung còn khổ hơn miền Nam. Từ đó mới nổi dậy hoạt động chống Pháp của những người dám hy sinh để cho đất nước này, dân tộc này được độc lập. Đó là những người có lòng tốt, có tâm thương người, tâm vì đại cuộc là tâm hồn lớn. Tâm hồn lớn gọi là Bồ-tát. Tâm hồn nhỏ gọi là tiểu thừa. Người trốn đời để tu vì sợ tội, sợ khổ, ai làm gì mặc họ, chỉ lo tu thôi, như vậy là tu tiểu thừa cũng được.
Người có tâm hồn lớn gặp được Bồ-tát thì hai tâm hồn lớn này có thể dìu dắt nhau tu được. Điển hình như ngài Phi Lai gặp Tổ Minh Khiêm Hoằng Ân ở chùa Giác Lâm. Vị Tổ này học rất giỏi, tu rất cao, nhìn thấu tâm can người. Khi gặp ngài Phi Lai, Tổ nói tất cả suy nghĩ của ông, tất cả việc làm của ông khiến ông rất kính phục Tổ. Nhờ Tổ Minh Khiêm Hoằng Ân dìu dắt, ông mới tiến tu được.
Trên bước đường tu, nhìn vào nhân gian, nhìn vào cuộc sống này, mình mới phát hiện ra Bồ-tát. Đến kinh Pháp hoa, Đức Phật mới nói rằng Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên là Bồ-tát, không phải Thanh văn. Nhưng vì Phật sanh trong thế giới loài người, các Bồ-tát ở trong thế giới của họ, sanh ra cùng thời với Đức Phật để trợ hóa cho Đức Phật. Chúng này quan trọng nhất gọi là chúng trợ hóa. Đức Phật phải có Bồ-tát hợp tác là người giỏi, người tốt để làm được việc lớn.
Đức Phật dạy như vậy, mình nhìn kỹ thấy đúng thiệt. Xá Lợi Phất là nhà hùng biện bậc nhất, bằng độ cảm tâm, tôi làm bài kệ tán thán ngài: “Vị tu hành thời đại luận gia. Danh văn phổ cập Ma Kiệt Đà. Hạnh ngộ Thánh Tăng nhi phát túc. Vị lai tác Phật hiệu Hoa Quang”. Nghĩa là trước khi tu theo Phật, ngài là đại luận sư ở nước Ma Kiệt Đà của vua Tần Bà Sa La. Không có luận sư nào tranh cãi qua được ngài. Ngài thông minh đặc biệt, ngài nổi danh ở nước Ma Kiệt Đà, nhưng gặp Mã Thắng Tỳ-kheo, ngài liền phát tâm. Vì ngài thấy Mã Thắng không nói, ôm bình đi khất thực, trông ung dung tự tại, an nhàn, thanh thoát.
Nhìn vào cuộc đời, thấy rõ Xá Lợi Phất là vị La-hán tái sanh trở lại trợ hóa Phật, nên gặp Phật, liền nhớ lại tiền kiếp là La-hán. Cấp Cô Độc cũng vậy, ông là Bồ-tát Thiện Đức cũng sanh lại cùng thời với Đức Phật, hết lòng với Phật. Đó là tình thầy trò nhiều kiếp trước, nên thầy sanh lại, trò cũng sanh lại để hộ pháp. Không có Cấp Cô Độc, ai xây Kỳ Hoàn tịnh xá, ai giúp đỡ chư Tăng tu ở đây. Vì vậy, Đức Phật ra đời có tất cả các vị Bồ-tát, A-la-hán sanh theo.