Theo thư tịch, sử sách như Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam nhất thống chí, Lịch triều hiến chương loại chí thì vào năm Quảng Hựu thứ nhất (1085), Nguyên phi nhà Lý Ỷ Lan khi dạo chơi Đại Lãm Sơn có ý định xây chùa. Năm 1086, Triều đình nhà Lý ra lệnh xây dựng chùa. Năm sau, 1087, Vua Lý Nhân Tông đến thăm ngôi chùa đang xây, mở tiệc, làm thơ “Lãm Sơn dạ yến”.
Sau mười năm xây dựng, năm 1097 chùa Dạm mới hoàn thành, được vua ban tên chùa là Cảnh Long Đồng Khánh, ban 300 mẫu ruộng tự điền (ruộng thuộc nhà chùa) để chùa có hoa lợi hương khói và bảy gia đình ở mé dưới núi được giao việc chuyên đóng - mở cửa chùa. Năm 1105, lại xây ba tháp đá ở chùa Lãm Sơn.
Năm 1097 chùa Dạm mới hoàn thành |
Trong thời gian dài sau đó, chùa luôn được sự chiếu cố đặc biệt của Triều đình, nên chùa càng được gia công mở mang quy mô. Vua Trần Nhân Tông từng đến thăm, ca ngợi thành thơ về bức tranh kiến trúc kế tiếp mười hai lớp này.
Chùa chiếm diện tích trên hai mẫu Bắc Bộ (khoảng 7.200m2), với bốn cấp cao dần kéo một trục dài 120m bám theo triền dốc của núi Dạm, chiều rộng mặt nền 70m. Các cấp nền chùa đều có xếp đá chống xói lở, chân hơi choãi, chếch khoảng 70 độ và cao 5-6m, đường xuống mỗi cấp của chùa gồm 25 bậc đá.
Đá xếp đều khai thác tại chỗ, đẽo gọt vuông vắn như viên gạch dài rộng chừng 50cm - 60cm. Nối các tầng nền với nhau là các bậc thềm lát đá. Trên các tầng nền có gạch ngói thời Lý, hoa văn hình rồng, phượng, sen dây, cúc dây. Những chân cột bằng đá 0,75m x 0,75m chạm nổi những cánh sen rất nghệ thuật.
Lên cấp nền đầu tiên mà dân địa phương gọi la Bãi Hội, khách đi bằng một lối cửa, tầng bậc cao, cả khoang bậc rộng 16m. Lên lớp nền thứ hai có ba lối hẹp hơn, tầng bậc thấp hơn. Lên lớp nền thứ ba và thứ tư đều chỉ có hai lối hẹp.
Kè đá ở cấp nền thứ hai là nền chùa chính. Trên đá xây có chạm hoa văn sóng nước, nét hoa văn to nổi khối, do chạm sâu. Trên nền tầng này, ở khoảng giữa ba lối cửa, bên phải chùa có khu đất vuông, cạnh 7m, cao 2m, kè đá chạm văn sóng nước thời Lý.
Trên nền thứ hai khu đất này có dựng một tấm bia trên lưng rùa. Thân bia cao 1,5m, rộng 1m. Đối diện với khu đất vuông này qua lối cửa giữa, bên trái cũng có một khu đất nổi, nhưng hình tròn đường kính khoảng 4,5m, cao 1m, cũng kè đá chạm hoa văn sóng nước Lý. Phần trên khu đất tròn này, dựng một cột đá lớn nguyên khối, không kể phần chôn sâu chìm, tất cả cao gần 5m.
Cấu trúc cột làm hai thớt khối, cũng lấy tượng hình vuông tròn trời đất. Khối gốc như hộp vuông tiết diện, cạnh 1,4m và 1,6m. Khối hình trụ đặt ở trên khối vuông, đường kính khoảng 1,3m. Đoạn dưới phần trụ tròn này chạm nổi đôi rồng phong cách thời Lý đầu vươn cao chầu vào viên ngọc tỏa sáng, thân quấn quanh cột, đuôi ngoắc vào nhau.
Hình dáng rồng giống dạng rồng rắn thời Lý với mào bốc lửa, bờm thành búi như cờ đuôi nheo bay lướt, thân tròn lẳn uốn khúc thoăn thoắt, chân chim năm móng. Đôi rồng nổi bật giữa các hoa văn phụ hình hoa dây móc, tinh xảo. Thân rồng to, mập uốn khúc quanh cột. Hai chân phía trước của rồng có móng sắc, nhọn, giơ cao nâng viên ngọc dưới cằm.
Nền thứ hai này còn có giếng Bống, truyền kể cô Tấm trong truyện cổ dân gian Tấm Cám nuôi cá bống ở giếng này.
Nền thứ ba và bốn có dấu tích chùa và đền thờ cô Tấm và Nguyên phi Ỷ Lan. Ở đây còn tấm bia đá nhỏ, khắc năm Chính Hòa thứ 17 thời Lê (1696) cao 0,65m, rộng 1,4m. Bia “Đại Lãm Thần Quang tự tân tạo Hộ Pháp” cho biết trước đây chùa chưa có Hộ Pháp và hàng nghìn người làm việc phúc đã tu bổ chùa, dựng thêm tượng.
Theo nhân dân địa phương, vào những năm 1946-1947, quân đội thực dân Pháp về đây đóng bốt, nhân dân địa phương đã đốt chùa để tiêu thổ kháng chiến. Khi phá chùa, tượng mẫu Nguyên phi Ỷ Lan và tượng Vua Lý Nhân Tông được gửi vào chùa Hàm Long gần đó nên mới giữ được đến ngày nay.
Toàn bộ di vật, cổ vật đã mất hết nên người dân coi hai pho tượng cổ đó là bảo vật. Hiện tại 100 gian xưa giờ được thay bằng ba gian điện nhỏ thờ thần Phật (ở nền cấp thứ ba) và ba gian đền (ở nền cấp thứ tư) thờ hai cổ vật còn sót lại là tượng Nguyên phi Ỷ Lan và Vua Lý Nhân Tông. Cả chùa và đền mới đều được xây dựng từ năm 1996, do nhân dân địa phương đóng góp.
Để tìm hiểu hướng phục dựng chùa Dạm, cuối năm 2011, tỉnh Bắc Ninh đã mời các chuyên gia tiến hành khai quật khảo cổ trên toàn bộ khuôn viên chùa với diện tích hơn 300m2. Qua quá trình khai quật phát hiện chùa vẫn còn lưu giữ được nhiều dấu tích có giá trị lịch sử cao như những bức tường kè đá khổng lồ được xếp bởi hàng nghìn phiến đá cắt gọt cẩn thận; các tầng cấp nền móng và hệ thống trụ sỏi lớn đường kính trên 1m.
Cột đá chạm rồng nằm trong khuôn viên chùa được coi là hiện vật điêu khắc hoành tráng, hoàn mỹ nhất của nhà Lý còn tồn tại đến nay. |
Số trụ sỏi tìm thấy còn khá nguyên vẹn, có nét tương đồng với trụ sỏi ở Hoàng thành Thăng Long. Bên cạnh đó, hàng loạt di vật được tìm thấy ở đây cũng thể hiện rõ dấu ấn nghệ thuật thời Lý. Tiêu biểu là những hình đầu rồng nhỏ, gạch ngói khắc hình rồng phượng, sen dây, cúc dây hay những chân cột đá chạm nổi hình cánh sen…
Bên cạnh những giá trị văn hóa vật thể, chùa Dạm còn bảo lưu nhiều giá trị văn hóa phi vật thể như truyền thuyết, giai thoại, thơ ca, hò vè, tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội. Trong đó nổi bật là tín ngưỡng và Lễ hội chùa Dạm.
Chính diện chùa Dạm thời Lý |
Hàng năm, cứ chuẩn bị đến ngày 8 tháng 9 Âm lịch, người dân sống quanh núi Dạm (xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh) lại khẩn trương thu hoạch vụ lúa mùa, sắp xếp công việc, dọn dẹp cửa nhà để mở hội đón khách. Không tưng bừng, dồn dập và đông nghẹt người như những lễ hội đầu xuân ở miền Quan họ, Lễ hội chùa Dạm diễn ra vào mùa thu nên mang vẻ trầm tĩnh, bình yên hơn.
Men theo sườn núi trẩy hội chùa Dạm, du khách như thoát khỏi thế giới trần tục, hòa nhập vào cõi Phật linh thiêng trong một phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ hội đủ núi non, suối sông, ao hồ với đồng bằng phì nhiêu cò bay thẳng cánh… Ngày chính hội, các làng quanh chùa Dạm mở hội với nghi lễ rước kiệu Thành Hoàng làng lên chùa Dạm yết kiến Thánh Mẫu. Đám rước kiệu Thánh của các làng có đầy đủ cờ, kiệu, tàn, lọng, siêu đao, bát bửu, trống, chiêng…
Một góc chùa Dạm |
Khi kiệu các làng lên đến chùa, trong chùa quan viên tế lễ Thánh Mẫu và mâm tế bao giờ cũng phải có bánh chưng, bánh dày mỗi loại 10 chiếc; ngoài sân chùa diễn ra nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật như: Biểu diễn tuồng, chèo và các trò chơi dân gian: Đu cây, đấu vật, đi cà kheo, cờ người, cờ tướng, thi dệt vải, thi nấu cơm thu hút đông đảo nhân dân địa phương và khách thập phương tham dự.
Với những giá trị lịch sử và nghệ thuật nêu trên, đền, chùa Dạm, thờ cô Tấm và Nguyên phi Ỷ Lan đã được Bộ Văn hóa - Thông tin nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa từ năm 1962. Với những gì còn sót lại, chùa Dạm xứng đáng là ngôi chùa cổ ngàn năm tuổi như những gì được miêu tả trong sử sách. Vẻ đẹp và hồn cốt của ngôi chùa vẫn còn vẹn nguyên với thời gian.