Hóa giải hận thù

Hóa giải hận thù

0:00 / 0:00
0:00
(Ngày Nay) - Hận thù là một trong những nghiệp ác mà mỗi người đã tự tạo ra. Tại sao có sự hận thù giưa người này với người khác, giữa bộ tộc này với bộ tộc khác, giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Hận thù phát xuất từ đâu.

Quan sát gần, sẽ thấy hận thù phát khởi từ tham vọng của con người. Thật vậy, hầu như mọi cuộc xung đột, sát phạt nhau trên cuộc đời này đều bắt nguồn từ lòng tham không đáy của con người ; kết quả là người được thì sanh tâm kiêu ngạo, người thua thì sanh oán thù và từ nỗi oan hận ấy gieo mầm cho tấn bi kịch trả thù tiếp theo, cứ như vậy mà mối hận thù sẽ tiếp diễn không ngừng trong nhân loại.

Dưới tuệ giác của Đức Phật, hoặc các vị thiền sư đắc đạo, từ vô thỉ kiếp cho đến ngày nay, tất cả moi người tạo ra không biết bao nhiêu là tội lỗi, gây ra không biết bao nhiêu là hận thù. Trong kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy rằng từ vô thỉ kiếp, do vô minh chỉ đạo mà con người tạo ra tất cả các tội ác và gây hận thù giữa người này với người khác, giữa mọi người trong cùng một gia đình và giữa nước này với nước khác. Hãy nhớ nghĩ lại xem từ vô thỉ kiếp, chúng ta đã từng làm người, làm thú, làm thần, làm quỷ, v.v… Có thể nói gần như chúng ta đóng đủ tất cả các vai trên sân khấu cuộc đời, hết làm việc thiện lại làm việc ác, hết làm ác rồi lại làm thiện; cứ như thế mà chúng ta thay hình đổi dạng, lang thang trong kiếp luân hồi sinh tử.

Sự sống của loài người, từ khởi thủy là đơn bào tiến lên đa bào, cho đến hình thành thân tứ đại của con người; trải qua quá trình sinh sống dài lâu đó, con người đã tranh giành và sát hại lẫn nhau. Có thể hiểu nghĩa “Vô thỉ kiếp” theo Phật là như vậy. Ngay từ thời bắt đầu có sự sống lúc mới hình thành vũ trụ, đã có sự cạnh tranh để sinh tồn giữa các loài; nói cách khác, loài này sống bằng cách sát hại loài khác, loài nọ phải chết đi cho sự tồn tại của loài khác nữa, v.v… Ý này được kinh Pháp Hoa diễn tả rằng các loài ăn nuốt lẫn nhau để mà sống.

Chúng ta có thể tạm chia sự sống của muôn loài thành hai nhóm là loài ăn cỏ và loài ăn thịt. Thử nghĩ xem đối với các loài ăn cỏ và đối với cỏ cây trong thiên nhiên, chúng ta có đối xử hoàn toàn tốt với chúng hay không, chúng ta không gây oán thù với chúng hay không. Cỏ cây dĩ nhiên có sự sống và ở một chừng mức nào đó, tình trạng sống của cỏ cây cũng chính là tình trạng sống của con người. Loài người vì vô minh ngăn che, nghĩ rằng cần phải cạnh tranh, phải tiêu diệt các loài khác để sống và cũng chính từ đó, con người tiêu diệt luôn cả môi trường sống của chính họ.

Ngày nay, khoa học đã chứng minh cho thấy loài người phá hủy môi trường sống nhiều nhất so với các loài khác. Loài người được đánh giá là tối linh, nhưng cũng là loài cực ác so với các ác thú như hùm beo, chó sói; vì xét kỹ, chúng chỉ ăn thịt các con thú khác khi đói, còn loài người giết nhau, hay giết các loài khác không phải chỉ vì đói. Con người săn giết các loài thú để lấy da xương của chúng làm đồ dùng cho giới tự nhận là quý phái, hoặc làm đồ trang sức, thậm chí săn bắn, câu lưới để giải trí, thỏa mãn ác tính của họ. Và loài người giết nhau phần lớn vì hận thù. So với các loài khác, văn minh của loài người lên đến tột đỉnh thì tội ác của loài người cũng tiến đến tột đỉnh; chỉ có loài người mới tàn sát lẫn nhau vì tham vọng, vì sự khôn ngoan thủ đoạn của họ.

Ngài Vạn Hạnh Thiền sư có bài kệ rất hay nói lên hận thù chồng chất thật khủng khiếp:

Xưa nay trong một bát canh,

Oán sâu như bể, hận thành non cao;

Muốn hay nguồn gốc binh đao,

Lắng nghe lò mổ tiếng gào đêm thanh.

Từ khi Đức Phật còn là thái tử, trong lúc tham dự buổi lễ hạ điền, Ngài đã thấy những luống cày xới đứt những con trùn, rồi bầy quạ bay sà xuống bắt ăn những con trùn bị cày xới, thấy vậy, người thợ săn bắn con quạ, trong khi sau lưng anh ta có con hổ rình chờ để ăn thịt anh. Đó là hình ảnh sống động nhất cho thấy sự sống của các loài tranh giành, ăn nuốt lẫn nhau, tạo nên hận thù không bao giờ dừng lại. Chứng kiến cảnh sống bi đát muôn đời như vậy, thái tử đã nung nấu tâm nguyện tìm cách giải thoát cho muôn loài ra khỏi cuộc sống sinh tử khổ đau. Và đến khi Ngài thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Đức Phật đã tìm được phương cách hóa giải hận thù khổ đau. Trên bước đường giáo hóa độ sinh, Ngài chỉ dạy rất nhiều phương thức hóa giải thù hận.

Nhiều người lầm tưởng rằng chỉ có Tịnh độ phương Tây của Đức Phật Di Đà; nhưng Đức Phật Thích Ca cho biết trong khắp mười phương, Đức Phật nào cũng có Tịnh độ riêng. Tịnh độ đó ra sao. Tất cả các Đức Phật sau khi chứng Niết bàn, không an trụ luôn trong Niết-bàn đó, nhưng các Ngài dấn thân cứu đời, giúp người, nghĩa là hành Bồ-tát đạo.

Chúng ta cứ tưởng những người phát tâm Bồ đề, hành Bồ tát đạo cho đến chứng quả Vô thượng Bồ đề là chấm dứt con đường tu hành. Nhưng đọc kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy khác nữa, thấy những vị Bồ-tát đã thành xong quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác vì thương nhân gian mà các Ngài sinh lại cuộc đời này; đó là Bồ-tát từ quả hướng nhân, khác với Bồ-tát từ nhân hướng quả như chúng ta thường nghĩ.

Bồ-tát Thập trụ hơn Bồ-tát Thập tín và Bồ-tát Thập hồi hướng thì trên Bồ tát Thập hạnh. Cuộc đời của các Bồ-tát cứu nhân độ thế không giống nhau, có Bồ-tát được một, hai thành quả cho đến có vị được chín, mười phần tốt đẹp. Như vậy, định vị được Bồ-tát thập tín, thập trụ, thập hạnh, thâp hồi hướng có pháp tu giống nhau, nhưng đạt được kết quả thì khác nhau.

Bồ-tát thập tín, thập trụ và thập hạnh trải qua 30 chặng đường chính yếu là lợi hành, tức thực hiện phần tự tu làm trong sạch mình là chính. Nhưng lên Bồ-tát thập hồi hướng, phải điều tiết thế nào cho thích hợp. Điều tiết của Bồ-tát thập hồi hướng, trong đó có hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, hồi hướng Pháp giới chúng sinh và hồi hướng Chơn như thật tướng. Trong ba pháp này, Bồ-tát luôn điều chỉnh, không phải tu pháp nào nhiều hay ít, nhưng pháp nào cần làm trước, điều nào chưa cần thì làm sau.

Có trí tuệ, ta thấy rõ trong giảng đường này, ai là người mà ta đã gây ác nghiệp với họ trong kiếp quá khứ, nên ngày hôm nay tu chung trong một ngày an lạc, họ cũng hầm hầm với ta, ta và họ đều không thể an lạc, vì nhìn thấy nhau là ghét rồi. Hoặc nhìn thấy họ là ta sợ rồi, vì đời trước, ta là cóc nhái, họ là rắn độc, ta từng bị họ nuốt trửng rồi.

Có trí tuệ quán sát tận ngọn nguồn của sự hận thù, mới hóa giải được. Ta nợ họ, hay họ nợ ta trong kiếp quá khứ. Họ nợ ta, ta tu hành, hỷ xả dễ dàmg; nhưng ta nợ họ mà bảo họ xóa bỏ rất khó. Giáo pháp của Đức Phật có công năng hóa giải tất cả hận thù của chúng sinh để đưa lên Niết-bàn, lên Cực lạc.

Các Phật tử không hiểu điều này, ham muốn hóa giải hận thù càng sớm càng tốt, nhưng không hóa giải được mà hận thù càng tăng thêm; vì không phải ta xin lỗi mà họ bằng lòng đâu. Kinh Pháp Hoa gọi là thệ nguyện an lạc, nghĩa là hãy đợi đó.

Chính Đức Phật đã đi trên lộ trình này. Tại sao Đức Phật hiện hữu trên cuộc đời này, biết bao người theo Ngài và hết lòng với Ngài. Điều này không có gì lạ cả. Đọc kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy rõ ý này. 500 vị Bồ-tát trong hội Pháp Hoa mà đứng đầu là Bạt Đà Bà La Bồ-tát trong nhiều kiếp quá khứ, đã từng mắng chửi, nói xấu, ném đá hại Phật, v.v… nhưng Ngài không những tha thứ cho họ, mà còn dìu dắt họ tu Bồ-tát đạo, chỉ bảo họ sống trong Chánh pháp; vì vậy mà trong hiện đời, họ thương quý Phật, tuyệt đối theo Phật.

Chính ta tự hóa giải hận thù, không phải người khác hóa giải; phải thấy oan nghiệp tiền kiếp thế nào giữa ta với họ mà nay gặp lại, không phải vô duyên cớ mà có hận thù. Theo tinh thần Đại thừa là biến khổ duyên thành lạc cụ. Biết là ác nghiệp của ta, quả báo tới, ta mượn việc này để chuyển đổi mối quan hệ ác thành thiện. Lam thiện thì dễ, nhưng hóa giải việc ác thành thiện không đơn giản.

Đời trước ta nợ họ, đời này họ mới theo đòi ta. Biết vậy, ta hóa giải ngay trong lòng ta là chuyển được khi họ đòi; vì phước đức ta tạo lớn rồi, nên họ đoi ta, nhưng người khác nhìn vào lại thấy họ nợ ta, không phải ta nợ. Ta sẵn sàng tha thứ cho họ là hóa giải, không phải hóa giải bằng cách xin họ tha thứ ta.

Ngoài niềm tin, chúng ta phải biết xấu hổ, lỡ làm việc không tốt với bạn, với thầy, phải ăn năn, thề không dám tái phạm; đó là “Tàm”. Người phạm sai lầm mà ưa che giấu và khi người khác biết lỗi rồi thì lại cố bào chữa, như vậy tội càng nặng hơn. Phải thành tâm sám hối, mọi người sẽ thương mà tha thứ cho mình. Đức Phật có hai hạng đệ tử, một là đệ tử đáng quý không bao giờ lỗi lầm. Hạng thứ hai cũng đáng quý, có lỗi lầm nhưng không che giấu, không bào chữa, mà biết sám hối. Muốn làm đệ tư Phật, chúng ta phải học hạnh này, oan ức còn không biện minh, huống chi là có tội mà còn dám bào chữa.

Tin cùng chuyên mục