Theo tuệ giác của Thế Tôn, nếu các căn gặp cảnh trần vừa ý, thọ lạc rồi sinh tâm yêu thích, đắm nhiễm thì đó là cội nguồn của mọi khổ đau.
“Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
Chư Thiên, người thế gian, đối với sắc thì yêu thích, đắm nhiễm, bám trụ. Sắc này nếu vô thường, biến đổi, hoặc diệt mất, thì trời và người sẽ cảm thấy rất khổ đau. Đối với âm thanh, mùi, vị, xúc, pháp cũng yêu thích, đắm nhiễm, bám trụ; nếu các pháp này vô thường, biến đổi, hoặc diệt mất thì trời, người sẽ sống trong đau khổ.
Đối với sự hiện hữu của sắc, sự tập khởi của sắc, sự diệt tận của sắc, vị ngọt của sắc, sự tai hại của sắc, sự xuất ly sắc, Như Lai biết như thật. Vì đã biết như thật, nên đối với sắc không còn yêu thích, đắm nhiễm, bám vào. Cho dù nếu sắc này là vô thường, biến đổi, diệt tận đi nữa, thì vẫn sống an vui. Đối với sự hiện hữu, sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, tai hại,xuất ly của thanh, hương, vị, xúc, pháp, nên biết như thật. Khi đã biết như thật thì không còn ưa thích, đắm nhiễm, bám vào. Cho dù sắc này là vô thường, biến đổi, diệt tận đi nữa, thì vẫn sống an vui.
Vì sao? Vì mắt và sắc làm duyên sanh ra nhãn thức, ba sự hòa hợp sanh ra nhãn xúc; xúc làm duyên sanh ra cảm thọ, hoặc khổ hoặc vui, hoặc không khổ không vui, nên sự tập khởi của thọ này, sự diệt tận của thọ này, vị ngọt của thọ này, sự tai hại của thọ này, xuất ly thọ này, nên biết như thật. Do nhân duyên sắc kia sự ách ngại phát sanh. Ách ngại bị diệt tận, đó gọi là vô thượng an ổn, Niết-bàn.
Đối với sự hiện hữu của tai, mũi, lưỡi, thân, ý và… pháp làm duyên sanh ra ý thức, ba sự hòa hợp này sanh ra xúc. Xúc duyên thọ, hoặc khổ hoặc vui, hoặc không khổ không vui như vậy, đối với sự tập khởi của thọ, sự diệt tận của thọ, vị ngọt của thọ, sự tai hại của thọ, sự xuất ly thọ này cũng phải biết như thật. Khi đã biết như thật rồi, pháp này làm nhân duyên sanh ra trở ngại và khi đã hết trở ngại rồi thì gọi là vô thượng an ổn, Niết-bàn.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ:
Nơi sắc, thanh, hương, vị/ Xúc, pháp, sáu cảnh giới/ Một hướng sanh vui thích/ Ái nhiễm, vui đắm sâu/ Chư Thiên và Người thế/ Chỉ vì cái vui này/ Khi biến đổi, diệt mất/ Họ sanh ra khổ đau/ Chỉ có bậc Hiền thánh/ Thấy chúng diệt, an vui/ Cái vui của thế gian/ Quán sát đều là oán/ Hiền thánh thấy là khổ/ Thế gian cho là vui/ Cái khổ của thế gian/ Đối với Thánh là vui/ Pháp sâu xa khó hiểu/ Thế gian sanh nghi hoặc/ Chìm đắm trong tối tăm/ Mờ mịt chẳng thấy gì/ Chỉ có người trí tuệ/ Mở bày sự sáng tỏ/ Lời sâu xa như vậy/ Phi Thánh nào ai biết/ Không lại thọ thân sau/ Đạt xa lẽ chân thật.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành”.
(Kinh Tạp A-hàm, kinh số 308)
Lời bàn:
Vạn vật hay sáu trần cảnh đều vô thường, biến hoại mà ta lại ước mong cho chúng trường cửu, nếu không toại ý thì sinh tâm tiếc nuối, khổ đau. Nếu ai thấy được như thật (về sự tập khởi, sự diệt tận, sự tai hại, sự xuất ly) của trần cảnh thì không đắm nhiễm, không bám víu, khi vô thường xảy đến họ vẫn an nhiên.
Quán chiếu sâu hơn, do duyên căn-trần-thức tiếp xúc mà sinh ra cảm thọ. Thọ lạc thì sinh tham ái, thọ khổ thì sinh sân hận.
Cuộc sống chỉ là chuỗi tham sân tiếp nối nhau. Cho nên phải thấy như thật (về sự tập khởi, sự diệt tận, sự tai hại, sự xuất ly) của cảm thọ để làm chủ tham sân, khiến chúng không sinh khởi. Khi các nhân duyên của tai ách, chướng ngại không còn thì hành giả sống vui, đạt vô thượng an ổn, chứng đạt Niết-bàn.