Chính tâm sở mới gây ra nhiều việc rắc rối, khổ đau cho con người. Tâm vương, hay chơn tâm thì muôn đời không thay đổi; ở trong chúng sinh thì tâm vương không mất, mà làm Phật thì tâm này cũng không tăng. Trong khi tâm sở thì có tăng có giảm, mà Duy Thức học nói rằng có đến 51 tâm sở.
Việc tu hành quan trọng ở sự điều chỉnh tâm sở của chúng ta. Và trong tâm sở, cần loại bỏ nhất là sáu căn bản phiền não và 20 tùy phiền não. Sáu căn bản phiền não còn được gọi là thập triền, thập sử. Vì nó ràng buộc và sai khiến con người tạo ra vô số tội lỗi trong sinh tử luân hồi. Trong Sám Quy Mạng, Duy Nhiên Thiền sư dạy rằng: “Thập triền, thập sử, tích thành hữu lậu chi nhơn…” . Thập triền, thập sử tạo thành nhân hữu lậu, nghĩa là nguyên nhân làm cho mọi người đau khổ.
Vì vậy, cắt bỏ sáu căn bản phiền não thì không còn gì sai sử, ràng buộc chúng ta; ở ngay trên cuộc đời này, chúng ta vẫn được giải thoát. Tất cả đệ tử Phật thực hiện được lời dạy này của Phật, ở hoàn cảnh nào cũng được an vui, giải thoát. Trái lại, nuôi lớn sáu căn bản phiền não, thì ở tình huống nào cũng khổ, mà chùa lớn càng khổ, chúng đông càng phiền hơn.
Loại trừ được căn bản phiền não trong lòng chúng ta, đối với tôi, trước tiên là bằng lòng chấp nhận thực tế cuộc sống của mình và sống tri túc. Nói cách khác, sống với phước báo mình có, với nghiệp quả mình đã tạo; không thể khác.
Sống trên cuộc đời này, chúng ta không mong cầu nên không khổ. Không mong cầu nên không ai có thể bắt chúng ta làm gì được. Có tiền hay không, có chùa hay không, không quan trọng. Giữ tâm thanh tịnh là việc chính yếu của người tu.
Không tham cầu, chỉ sống với những gì thực có của chính mình. Một số huynh đệ của tôi có nghiệp thích ăn ngon, mặc đẹp, sống sang trọng nên đã vay mượn, nhờ cậy Phật tử. Một thời gian sau, không tu được nữa; vì tâm trở thành thế tục đã khiến thân cũng thành thế tục và việc làm sai trái.
Từ thuở tôi còn trẻ, Hòa thượng Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương đã dạy tôi nên sống với những gì mình có, để lo phát huy đạo đức và tri thức cao thì phước lạc sẽ tự đến. Phước lạc trước nhất của người tu là do khắc phục được lòng tham của chính mình. Lòng không muốn, đói thì ăn món gì cũng được. Còn muốn ăn mà không có thì chính lòng tham này hành hạ mình. Lòng tham phần nhiều dẫn đến thọ quả báo xấu. Phải khắc phục được lòng tham, mới phát sinh công đức.
Việc này tôi từng trải, biết rõ, xin chia sẻ với quý vị. Phước báo đến đâu thì sống đến đó. Hoặc sống dưới mức mình có thì càng được an lạc hơn. Ta không làm được việc gì nhưng hưởng đời sống vật chất nhiều, tất nhiên phải mang nợ. Đến khi hết phước, nợ này đưa chúng ta về đâu?
Mỗi ngày chúng ta tự kiểm xem làm được bao nhiêu công đức, hưởng thụ của đàn na tín thí bao nhiêu, độ được bao nhiêu người, giúp cho bao nhiêu người phát tâm, v.v… Làm thiếu, phải trả quả báo. Tuổi càng lớn, người càng lánh xa, bệnh càng sinh ra, yêu cầu càng nhiều mà sự cung cấp càng giảm thiểu, là biết đã tổn phước.
Thực tế cuộc sống cho thấy rõ, một số người mới tu được phước lạc đầy đủ, nhưng với thời gian, mất phước dần. Có người mới tu gặp khó khăn, về sau lại tích lũy được công đức. Làm nhiều, yêu cầu ít, nên có thặng dư. Không biết thì cứ dùng của Tam bảo, nợ đàn na thí chủ, không thể trả nổi. Tôi lấy một thí dụ nhỏ mà cảm thấy sợ. Tôi đánh chuông cho một
Phật tử lạy Phật. Họ để vài đồng bạc vào chuông, nhưng họ cầu xin đủ thứ chuyện, nghe thôi cũng sợ. Vì vậy, Phật dạy rằng đồng tiền của đàn na thí chủ nặng lắm. Dùng tâm thanh tịnh mà nhìn vào những đồng tiền của thùng phước sương, chúng ta thấy nặng nề vô cùng, trả rất khó.
Chúng ta mặc áo tu, nhờ phước đời trước. Phước hết mà nghiệp tới thì không thoát được khổ. Các vị Tổ sư cũng thường dạy rằng đời này không đắc đạo, đời sau phải trả nợ, có món nợ nặng đến nỗi phải trả bằng cách “mang lông, đội sừng”.
Người ta yêu cầu nhiều, nếu chúng ta tu hành tạo được công đức lớn cho họ nương nhờ thì xóa được nợ. Ý này được diễn tả trong kinh Pháp Hoa rằng “Giả nhiêu tạo tội quá sơn nhạc, bất tu Diệu Pháp lưỡng tam hàng”.
Tôi thấm thía ý này, chỉ có công đức lớn và đắc đạo, mới trả nợ Tam bảo được. Vì thế, phải nỗ lực tu để thoát ly tam giới; nghĩa là tâm chúng ta vượt ra ngoài ba cõi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Phải giữ tâm thanh tịnh bằng cách khắc phục ba nghiệp thân khẩu ý, mà ý nghiệp là quan trọng nhất.
Đối với ý nghiệp: tham, sân, si, chúng ta phải đảo ngược lại thành không tham, không giận, không buồn, không lo sợ; vì tất cả đều là Không. Từ tâm tội lỗi, khắc phục, chuyển đổi thành tâm không tội lỗi để tâm được thanh thản; đó là bước đầu.
Và từ không có tâm tham, tâm giận, chúng ta phát Bồ đề tâm, không nghĩ đến bản thân mình nữa, mà quan tâm đến người khác để giúp đỡ. Quý vị phát Bồ đề tâm theo Bồ tát, giữ được tâm đã không tham, mà những gì mình có, nên phục vụ cho đời. Tặng tiền của, hiểu biết và dùng sức lực của mình cống hiến cho mọi người là công đức bắt đầu sinh ra.
Và đạt được tâm không sân hận, chấp nhận người khác đổ lỗi cho mình. Vì bước theo dấu chân Phật, chúng ta nghĩ rằng người đau khổ, buồn phiền, khó khăn, họ đổ cho ta thì họ được nhẹ lòng. Trong khi ta đã không sân hận, nên dễ dàng chịu đựng thay cho họ. Nghĩ và làm như vậy, công đức sinh ra. Đó cũng là kinh nghiệm của riêng tôi, nhờ người trút giận, mà tu nhẫn nhục và chịu đựng được, tạo thành quả báo tốt; nên người thấy tôi tốt thực và quý mến. Người trút giận rồi cũng phải xin lỗi, vì chẳng ai công nhận họ đúng.
Thể hiện tinh thần Phật dạy, sống với những gì mình có, hoặc sống tri túc và luôn giữ tâm thanh tịnh, nỗ lực diệt trừ phiền não, tham sân si. Công đức theo đó lớn dần, tạo thành sức cảm hóa được nhiều người cùng đi chung con đường Phật đạo với chúng ta. Hàng đệ tử Phật thành tựu được như vậy, sẽ thấy Phật giáo mới là chất liệu quý báu, cần thiết giúp thế giới loài người hạ bớt ngọn lửa thù hận, sát hại, để có thể cùng nhau xây dựng hòa bình, an lạc trên trái đất này.