Thị trường chứng khoán tăng vọt và sụp đổ qua một đêm; nền kinh tế và tài chính thế giới đang phát triển với một tốc độ nhanh hơn bao giờ hết. Sự thỏa mãn đời sống được đo lường bằng một kế hoạch đời sống, một sự nghiệp, một gia đình, hay một thế hệ. Sự phát triển của môi trường được đo lường bằng một thế kỷ, một thiên niên kỷ hay một kỷ nguyên, mặc dù những biến dịch sinh thái đang tiến nhanh hơn những nhịp điệu thay đổi này. Chúng ta hiện đang sống trong một kỷ nguyên được gọi là Thế nhân sinh (anthropocene), kỷ nguyên đầu tiên mà ở đó con người có một sự ảnh hưởng toàn cầu vào hệ sinh thái của trái đất.
Làm thế nào chúng ta có thể làm việc với ba thang thời gian này cùng một lúc? Làm thế nào chúng ta dung hòa chúng? Chúng ta biết việc thay đổi những thói quen của chúng ta thật sự khó khăn như thế nào. Những nhà đầu tư không sẵn sàng bỏ tiền của họ vào những hợp đồng tài chính mà nó sẽ mãn hạn trong 100 năm. Những người khá giả không muốn hy sinh lối sống của họ vì lợi ích của người khác, càng ít muốn hơn vì lợi ích của những thế hệ tương lai.
Những người sống trong nghèo khó một cách tự nhiên khao khát có được sự thịnh vượng và sự phát triển kinh tế để cải thiện tình cảnh của họ tốt hơn và để bắt kịp những quốc gia giàu nhất. Những người kiếm lợi nhiều nhất từ việc khai thác tài nguyên thiên nhiên không muốn giảm bớt việc thu nhập của họ. Chủ nghĩa cá nhân ngăn chúng ta chấp nhận một cái nhìn toàn cầu về những vấn đề này, ngăn chúng ta rút ra những kết luận cần thiết, và ngăn chúng ta thực hiện các biện pháp tương ứng.
Tuy nhiên, có một sợi dây quan trọng mà nó nối ba thang thời gian này lại và làm hài hòa quyền ưu tiên của chúng - đó là lòng vị tha. Lòng vị tha không phải là một lý tưởng cao vời, hay một sự xa xỉ chỉ người giàu mới có. Bây giờ, hơn bao giờ hết, lòng vị tha là một điều cần thiết cho hạnh phúc của tất cả mọi người.
Nếu chúng ta quan tâm hơn đến những thế hệ tương lai, chúng ta sẽ không vì những tham muốn và nhu cầu ngắn hạn của chúng ta mà hy sinh một cách mù quáng môi trường mà những thế hệ tương lai thừa kế từ chúng ta.
Lòng vị tha chân chính
Nếu chúng ta vị tha hơn, nếu chúng ta quan tâm người khác hơn, chúng ta sẽ không đắm chìm trong việc tích lũy điên cuồng.
Nếu chúng ta quan tâm hơn đến chất lượng cuộc sống của những người xung quanh ta, chúng ta sẽ đảm bảo rằng những điều kiện làm việc, đời sống gia đình, và nhiều khía cạnh khác của xã hội được cải thiện.
Cuối cùng, nếu chúng ta quan tâm hơn đến những thế hệ tương lai, chúng ta sẽ không vì những tham muốn và nhu cầu ngắn hạn của chúng ta mà hy sinh một cách mù quáng môi trường mà những thế hệ tương lai thừa kế từ chúng ta.
Lòng vị tha là một yếu tố mà nó quyết định chất lượng sự có mặt hiện tại và tương lai của tất cả chúng ta. Nó không nên bị xem là một ý tưởng không tưởng được tạo ra bởi một ít người có trái tim lớn. Chúng ta phải có tuệ giác để nhận thức vai trò quan trọng của nó và có sự can đảm để nói như vậy.
Những nhà kinh tế đã đặt lý thuyết của họ trên sự giả định rằng con người luôn theo đuổi những lợi ích cá nhân của riêng họ. Mặc dù giả thuyết này sai lầm, nó là cơ sở của những hệ thống kinh tế hiện nay. Chúng được đặt cơ sở trên nguyên tắc trao đổi hàng hóa và dịch vụ tự do như Adam Smith đã ấn định. Chúng không tính đến nhu cầu cần thiết cho mỗi cá nhân quan tâm đến hạnh phúc của người khác. Sự bỏ sót này đã tạo ra một xã hội không thể vận hành một cách hài hòa.
Chính Adam Smith đã viết về nhu cầu này ở trong The Theory of Moral Sentiments, một tác phẩm mà nó thường bị những nhà kinh tế phớt lờ (Smith 1759). Những nhà kinh tế hiện đại hiện đang gia tăng kêu gọi thừa nhận vai trò của lòng vị tha ở trong mọi khía cạnh của đời sống con người, bao gồm kinh tế. Ví dụ, Dennis Snower, nhà sáng lập GES (Global Economic Symposium), đã nhấn mạnh rằng cùng với “tiếng nói của lý trí”, những nhà kinh tế, chính trị gia v.v… bây giờ cần phải nói với “tiếng nói của sự quan tâm” (Snower 2012).
Những người theo thuyết tiến hóa cũng nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không nên quên việc Darwin nhấn mạnh tầm quan trọng sống còn của sự hợp tác trong thế giới chúng sinh. Martin Nowak, cùng những người khác, nhắc chúng ta: “Sự hợp tác là kiến trúc sư của sự sáng tạo ngang qua sự tiến hóa, từ những tế bào cho đến các sinh vật đa bào, cho đến những gò mối, những ngôi làng đến các thành phố. Nếu không có sự hợp tác thì không thể có sự xây dựng cũng không có sự đa dạng trong tiến hóa. Hợp tác - không phải cạnh tranh - củng cố sự cách tân”. (Nowak 2011)
Tìm hiểu về lòng vị tha
Lòng vị tha có thể định nghĩa là “sự mong muốn và quyết định đem lại hạnh phúc cho người khác”. Trạng thái tâm này sẽ đưa đến hành xử mà nó cố gắng nhận ra mục tiêu này. Lòng vị tha chỉ có thể được xem là chân thực khi việc đạt lấy hạnh phúc cho người khác là động cơ chính và mục đích cuối cùng của một hành xử cụ thể.
Sử gia Phillip Hallie viết: “Lòng tốt không phải là một học thuyết hay một nguyên lý. Nó là một cách sống.” (Hallie 1978). Lòng vị tha có thể là một trạng thái tâm tạm thời, hoặc phát triển thành một cách sống lâu dài. Nơi bản chất của nó, lòng vị tha là một trạng thái tâm rộng lượng mà nó được cung cấp nhiên liệu bằng sự quan tâm đến số phận của tất cả những người xung quanh chúng ta.
Sự nối kết với hạnh phúc là hiển nhiên. Trong Phật giáo, tình thương vị tha được định nghĩa là “mong ước rằng tất cả chúng sanh tìm thấy hạnh phúc và nguyên nhân của hạnh phúc.” Những mong ước vị tha này phải đi cùng với một sự quyết tâm làm mọi điều bằng khả năng của chúng ta để biến chúng thành sự thật. Quyết tâm này sẽ thúc đẩy hoạt động, nhưng nó phải được khai sáng và được trao cho sức mạnh bằng nhận thức sáng suốt và trí tuệ.
Lòng từ bi hình thành nên tình thương vị tha khi nó đối mặt với khổ đau. Phật giáo định nghĩa lòng từ bi là “mong muốn tất cả chúng sanh thoát khỏi khổ đau và những nguyên nhân của khổ đau.”
Cảm thông là khả năng cộng hưởng với người khác, cộng hưởng với cảm xúc của người khác và hiểu rõ tình cảnh của họ. Từ cảm thông (empathy) là một sự chuyển dịch từ tiếng Đức einfühlung, mà nó có nghĩa là “đồng cảm”. Nhà tâm lý học Edward Tichtener sử dụng thuật ngữ này lần đầu tiên trong tiếng Anh vào đầu thế kỷ XX.
Cảm thông xuất hiện một cách tự nhiên khi chúng ta chứng kiến những tình cảnh của người khác và những xúc cảm của họ như được thể hiện bằng những biểu hiện qua nét mặt, âm thanh giọng nói và hành xử của họ. Sự cảm thông truyền đạt cho chúng ta biết bản chất và cường độ khổ đau của họ. Có những thể thức khác nhau về sự cảm thông, một số thuộc cảm xúc, một số thuộc nhận thức.
Nhà tâm lý học Daniel Batson, một trong những chuyên gia xuất sắc nhất nghiên cứu về lòng vị tha, phân biệt đến tám loại cảm thông (Batson, C.D. 2009). Để quan tâm tình cảnh của người khác với lòng vị tha, chúng ta phải bắt đầu bằng việc chấp nhận quan điểm của họ. Triết gia Jean-Jacques Rousseau đã viết, “Người giàu dành ít tình thương cho người nghèo bởi vì họ không thể hình dung họ là người nghèo”. Bước kế tiếp là phải quý trọng người khác, bởi chỉ tưởng tượng bản thân mình ở nơi hoàn cảnh của một người nào đó hay cảm nhận những gì họ cảm nhận là không đủ.
Niềm vui cảm thông bao gồm hoan hỷ và mừng vui từ tận đáy lòng về những thành tựu và phẩm chất của người khác, hay ở những người cống hiến cho nhân loại những việc làm tốt và những dự án có ích của họ được thành công. Sự vô tư là thành phần cốt yếu khác của lòng vị tha. Mong muốn rằng tất cả chúng sanh thoát khỏi khổ đau không phải dựa vào những thiên kiến cá nhân hay vào cách mà người khác đối xử với chúng ta.
Sự vô tư được ví dụ bằng suy nghĩ của một bác sĩ giàu lòng thương yêu, người hoan hỷ khi thấy người khác khỏe mạnh và là người quan tâm đến việc chữa trị cho tất cả bệnh nhân, bất kể những bệnh nhân là ai, mà không bị ảnh hưởng bởi những phán xét đạo đức và những thiên vị cá nhân.
Lòng vị tha sinh học được di truyền từ sự tiến hóa. Nó được dựa trên sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái và bản chất chúng ta vốn có mà không cần phải hướng dẫn. Nhưng lòng vị tha này hạn chế và không vô tư bởi vì nó dựa vào những quan hệ họ hàng hay vào cách người khác đã đối xử với chúng ta. Ngược lại, lòng vị tha mà nó hướng đến tất cả chúng sanh thì thoát khỏi những thiên kiến như vậy. Tuy nhiên, đối với hầu hết chúng ta, điều này không phải do bản năng mà đòi hỏi một số chỉ dẫn và rèn luyện. Mặc dù được dựa trên lòng vị tha sinh học, nó vượt qua những giới hạn của lòng vị tha sinh học.