SỐĐẶCBIỆT (30/4/2025) TẠPCHÍ W W W . N G AY N AY. V N MIỄN PHÍ CƠQUAN NGÔN LUẬN CỦA LIÊN HIỆP CÁC HỘI UNESCOVIỆT NAM ORGAN OF VIETNAM NATIONAL FEDERATION OF ASSOCIATIONS FOR UNESCO Ảnh: GiangHoàng
50NĂMNGÀYGIẢI PHÓNGMIỀNNAM Sốđặcbiệt 2 Những ngày tháng Tư lịch sử, cả nước tưng bừng trong không khí hướng đến 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025). Chiến thắng 30/4/1975 là thành quả to lớn của tinh thần chiến đấu quật cường của toànĐảng, toàndân, toàn quân ta, là biểu tượng đỉnh cao của lòng yêu nước, trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam. Trong không khí ngày hội dân tộc, mỗi người dân Việt Nam vui m ng và xúc động lại nhớ tới Bác Hồ kính yêu vơi niềm mong ước, khát vọng đất nước thống nhất của Người. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là nhiệm vụ tiên quyết của toàn dân tộc Sau thắng lợi của nhân dân ta năm 1954 trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, do âm mưu và hành động xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, đất nước vẫn phải chịu cảnh chia cắt. Hòa bình lập lại ở miền Bắc nhưng miền Nam phải tiếp tục gồng mình chống quân thù xâm lược. Bác Hô luôn tin tưởng vào lòng ái quốc của đồng bào Nam Bộ “thà chết tự do còn hơn sống nô lệ”, đồng thời Người khẳng định: “Trái tim của tôi và 17 triệu đồng bào miền Bắc luôn luôn đập một nhịp với trái tim của đồng bàomiền Nam”. Ngày 6/7/1956, trong thư gửi đồng bào cả nước, Người nêu rõ mục tiêu lớn nhất của toàn dân ta lúc này: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta”. Vì vậy, nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là quyết tâm và mong ước lớn lao của Người và cua cả dân tộc. Bác cùng Trung ương Đảng luôn theo sát tình hình cách mạng miền Nam để kịp thời vạch ra đường lối, phương pháp cách mạng phù hợp, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước phát triển qua t ng giai đoạn. Để phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết của toàn dân trên cõi Việt Nam, Bác Hồ đã kêu gọi toàn dân chống đế quốc Mỹ: “Lúc này chốngMỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Đồng thời thể hiện quyết tâm của toàn dân tộc Việt Nam trong việc thực hiện “nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta là phải nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc”. người Việt Nam yêu nước”. Ngày 17/7/1966, Người khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Trên mọi diễn đàn trong nước và quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định kiên quyết bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Tư tưởng đó đã được Người thể hiện rõ ràng, đanh thép trong các buổi hội họp, trả lời phóng viên báo chí, các chính khách nước ngoài. Đó là đường lối cách mạng xuyên suốt, là khát vọng và niềm tin tất thắng của Người vào sự nghiệp cách mạng miền Nam, thống nhất đất nước. Bác nhấn mạnh: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai được xâm phạm đến quyền thiêng liêng ấy của nhân dân ta; “Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”; “Đồng bào Nam bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, Trong Di chúc thiêng liêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Đó vừa là dự đoán thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vừa Chủ tịchHồChíMinh thămTrườngHọc sinhmiềnNamsố12, ThànhphốHải Phòng18/1/1960. Ảnh: Tư BácHogặpcác cháu thiếunhi dũng sĩmienNamtại PhuChu tichnam1968. Mong ước của Bác Hồ về ngày vui thống nhất
Tình cảm của Bác Hồ với đồng bào miền Nam và sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước Tình cảmđó được Bác thể hiện thống nhất từ đường lối chỉ đạo đến hành động, giữa lời nói và việc làm cụ thể. Người hiểu sâu sắc tấm lòng yêu nước, hy sinh của đồng bàomiền Namđể giữ gìn non sông của đất nước và “Một ngày Tổ quốc chưa thống nhất, miền Nam chưa được giải phóng là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Người hiểu sâu sắc và đồng cảnh để thực hiện mục tiêu giải miền Nam thống nhất đất nước, đồng bào chiến sĩ miền Nam là những người chịu nhiều gian khổ, hy sinh mất mát nhất. Vì vậy, Bác luôn theo sát từng bước đi của cách mạng miền Nam, kịp thời động viên, chia sẻ những đau thương mất mát với đồng bào miền Nam anh dũng đi trước về sau, “thành đồngTổ quốc”. Mỗi khi nhắc đến đồng bào chiến sĩ miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều vô cùng xúc động. Trong tiến trình cách mạng miền Nam và những năm tháng cuối đời, mặc dù bận nhiều công việc nhưng Bác Hồ đã gửi nhiều bức điện, thư chúc mừng những thắng lợimà đồngbào miền Nam đạt được và thăm hỏi, động viên với những đau thương mất mát của đồng bào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bác cũng luôn căn dặn các đồng chí phục vụ, nếu có đoàn đại biểu miền Nam ra miền Bắc thì sắp xếp cho Bác gặp. Đặc biệt, tháng 10/1962, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu, làm trưởng đoàn ra thăm miền Bắc, các đồng chí đã gửi tới Người một món quà đặc biệt và vô cùng xúc động, đó là tập thơ của nhà thơTrọngTuyển - Người chiến sĩ cách mạng kiên trung, Bí đât nươc thư Tỉnh ủy Gia Định. Sau khi nghe nhà thơ Thanh Hải báo cáo với Bác rằng khi còn sống, nhà thơTrọngTuyển chỉ có ước mơ duy nhất là được tận tay dâng Bác tập thơ này. Cầm tập thơ, Bác lặng đi, một tay đặt lên ngực, Bác nói: “Bác chẳng có gì tặng lại cả, chỉ có câu này: Miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi”. Bác Hồ với niềm tin sắt son và khát vọng thống nhất đất nước Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịchHồ Chí Minh, nhân dân miền Bắc đoàn kết góp sức người sức của cho chiến trường miền Nam, đồng bào miền Nam Anh dũng chiến đấu vì mục tiêu chung thống nhất đất nước. Từ thực tiễn cáchmạng với niềm tin chiến thắng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần tiên đoán chính xác về thắng lợi của cách mạng miền Nam. Trong diễn văn kỷ niệm 15 năm giành độc lập 2/9/1960 Người viết: “Chúng ta gửi đến đồng bào miền Nam mối tình ruột thịt và hứa với đồng bào rằng: Toàn dân ta đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì chậm lắm là 15 năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc - Nam nhất định sẽ sum họp một nhà”. Trong văn bản, Bác đã gạch chân dưới các chữ “chậm lắm là 15 năm nữa”. Đúng 15 năm sau, đại thắng mùa xuân 1975 đã chứng minh tiên đoán chính xác của Người. Vững tin vào sức mạnh của lòng yêu nước và đồng bào, chiến sĩ miền Nam, Bác khẳng định: “Quân và dân ta ở miền Nam có đủ khả năng đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ dù chúng đưa thêm vào miền Nam mấy chục vạn quân nữa”. Vì vậy, trong Di chúc thiêng liêng để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của dân tộcViệt Namtrong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Người viết: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường và sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, nhân dân ta đã đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc bằng đại thắng mùa Xuân năm 1975 - thỏa lòng mong ước của Bác Hồ. Kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mỗi người dân Việt Nam đều khắc ghi tình cảm thiêng liêng cao qúy của Bác Hồ đối với miền Nam và công lao to lớn của người đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Phát huy tình sau giải phóng miền Nam, thực hiện đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh bước vào thời kỳ mới, thực hiện nhiệm vụ chiến lược của giai đoạn cách mạng mới với nhiều kết quả to lớn. Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, văn hóa, khoa học, giáo dục - đào tạo của vùng kinh tế trọng điểm phía nam và cả nước, đồng thời là cửa ngõ quan trọng kết nối với khu vực và thế giới, thực hiệnDi chúc thiêng liêng của Bác Hồ: “Còn non còn nước, còn người/ Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”. n Chủ tịchHồChíMinhvới các anhhùng, dũng sĩ diệtMỹ trongĐoànđại biểu Mặt trậndân tộcGiải phóngmiềnNamViệt Namtại PhủChủ tịchngày 28/2/1969. Ảnh: TTXVN Trái tim của tôi và 17 triệu đồng bào miền Bắc luôn luôn đập một nhịp với trái tim của đồng bào miền Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh Ảnh tư liệu. NGAYNAY.VN 3 Sốđặcbiệt THỐNGNHẤTĐẤTNƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2025)
Cách đây tròn 50 năm, trưa ngày 30/4/1975, khoảnh khắc Sài Gòn chính thức được giải phóng, đất nước khép lại hơn hai thập niên kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhà báo Trần Mai Hưởng may mắn có mặt như một nhân chứng lịch sử. Ông là một trong những phóng viên chiến trường trực tiếp có mặt, kịp thời ghi lại được những khoảnh khắc sống động tại Dinh Độc Lập, Sài Gòn trong giây phút thiêng liêng, trọng đại ấy. Tinh thần người lính cầm bút Mùa Xuân năm 1975, không khí cách mạng sục sôi khắp mọi miền Tổ quốc. Tại Vĩnh Linh (Quảng Trị), nhà báo Trần Mai Hưởng, khi ấy là một phóng viên trẻ của TTXVN, bất ngờ được gặp các đồng chí Lê Đức Thọ và Đồng Sỹ Nguyên về thăm đặc khu. “Trong buổi làm việc được tham dự, qua những thông tin nắm bắt được, tôi cảm nhận dường như sắp có một chiến dịch lớn sẽ diễn ra”, ông nhớ lại. Trở về Hà Nội, giữa khoá học tại trường Đại học Kinh tế kế hoạch (nay là Đại học Kinh tế quốc dân), ông biết tin TTXVN chuẩn bị tổ chức hai đoàn công tác vào chiến trường miền Nam. Không chút chần chừ, ông ngay lập tức tìm gặp nhà báo Đỗ Phượng, Phó Tổng Giám đốc TTXVN thời điểm đó để đề nghị được tham gia đoàn công tác, quay trở lại chiến trườngđã từnggắnbónhững năm trước đó. “Tôi nhớ rất rõ gương mặt trầm ngâm của bác Đỗ Phượng qua làn khói thuốc, ông băn khoăn rằng nhà tôi có hai anh em, anh trai tôi là nhà báo Trần Mai Hạnh đã tham gia đoàn công tác vào miền Nam, nếu tôi cũng đi thì bố tôi sẽ lo lắng nên cơ quan không định cử cả hai. Nhưng sau khi tôi cố gắng thuyết phục, lãnh đạo đã chấp thuận”, nhà báoTrầnMai Hưởng kể về quyết định quả quyết của mình dù chưa kịp hỏi ý kiến gia đình. Đến khi biết chuyện, quả Là phóng viên chiến trường, Trần Mai Hưởng không xa lạ gì với bom đạn, nơi lằn ranh sinh tử giữa sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc. Ông không ngần ngại thừa nhận: “Chẳng ai ra chiến trường mà không sợ. Sống hay chết lúc ấy chỉ là may rủi”. Sợ hãi, với ông, là cảm xúc rất con người, rất đời và rất thật. thực cha ông đã ủng hộ lựa chọn của con trai mình, nhẹ nhàng đáp: “Cơ quan đã phân công nhiệm vụ thì con cứ đi thôi”. Với chàngphóng viên trẻ năm đó, lời nói của người cha chất chứa niềm tin và sự ủng hộ tuyệt đối, dù biết rằng sâu thẳm, ông cụ hẳn sẽ có nhiều đêmmất ngủ, thấp thỏmlo âu khi cả hai người con trai cùng lao vào nơi hòn tênmũi đạn. NGỌC PHẠM Giữa những ngày tháng Tư lịch sử, bức ảnh chụp xe tăng 846 của Quân Giải phóng hiên ngang tiến vào Dinh Độc Lập của nhà báo Trần Mai Hưởng, nguyên Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) lại được nhắc đến như một biểu tượng của mùa Xuân đại thắng năm 1975. Hội quân trongkhuônviênDinhĐộc Lập trưa30/4/1975. Đoànquângiải phóng trên xa lộ tiếnvàoSài Gòn ngày 30/4/1975. Có lẽ, đó là tiếng gọi, là sự sắp đặt của số phận, dẫn dắt tôi đến những khoảnh khắc không thể nào quên, để tôi được có mặt tại Sài Gòn trong ngày tháng lịch sử năm ấy. Nhà báo Trần Mai Hưởng NGAYNAY.VN 4 Sốđặcbiệt 50NĂMNGÀYGIẢI PHÓNGMIỀNNAM
Ông kể về những lần hành quân qua bãi bom nổ chậm, mỗi bước chân như đối diện với thần chết. “Có khi bom nổ ngay trước mặt, có khi vừa đi qua thì nó nổ phía sau”, ông nói. Chứng kiến nhiều nhà báo, phóng viên hy sinh, nỗi sợ ấy càng rõ nét, nhưng điều khiến ông và những người lính cầm bút vượt qua là ý thức về nhiệm vụ. Thay vì để nỗi sợ chế ngự, họ chọn cách quên nó đi để tập trung vào công việc. Đó là cách những phóng viên thời chiến - “những người chép sử bằng máu mình trong lửa đạn” tôi luyện bản thân, biến nỗi sợ thành động lực tiến lên. “Công việc không cho phép mình sợ. Nếu sợ mà không đi, thì làm sao ghi lại được những gì đang diễn ra? Làm sao kể lại được câu chuyện của bộ đội, của nhân dân?”, ông chia sẻ. Linh cảm về một chiến dịch lịch sử Trong cuốn“Hồi ký phóng viên chiến trường - Trên những nẻo đường chiến tranh và hòa bình”, nhà báo TrầnMai Hưởng có viết:“…tôi cảm nhận rất rõ là chuyến đi này sẽ khác nhiều các chuyến đi trước đây”. Ông không biết chắc điều gì chờ đợi, nhưng trong lòng ông, có linh cảm như muốn thôi thúc mạnh mẽ: Phải trở lại chiến trường, phải chứng kiến và ghi lại những gì sắp xảy ra. “Lúc đó tôi chẳng kịp cân nhắc nhiều, chỉ đơn giản là bản thân rất muốn đi”, ông nói. Chuyến đi năm 1975 không giống những lần trước. Ông tự nguyện xin đi vào chiến trường làm nhiệm vụ tác nghiệp, bất chấp việc đoàn công tác của cơ quan đã chuẩn bị lên đường, chấp nhận gác lại việc học còn đang dở dang. “Có lẽ, đó là tiếng gọi, là sự sắp đặt của số phận, dẫn dắt tôi đến những khoảnh khắc không thể nào quên, để tôi được có mặt tại Sài Gòn trong ngày tháng lịch sử năm ấy”, ông Hưởng ngẫm lại. Trênhành trình từHuế tiến vào Sài Gòn, dù không phải là phóng viên ảnh chuyên trách, nhà báo Trần Mai Hưởng khi đó đã tha thiết xin được cấp phát theo một chiếc máy ảnh Hải Âu để có thể ghi lại từng khoảnh khắc, như biết rằng mỗi kiểu ảnh là một mảnh ghép quý giá của lịch sử. Mỗi điểm chàng phóng viên trẻ chỉ dám chắt lọc chụp vài tấm hình, bởi hai cuộn phim được cấp phát cũng chỉ có thể chụp 72 kiểu ảnh trong suốt tuyến đường di chuyển. Ngày 30/4/1975, nhà báo Trần Mai Hưởng có mặt trong đoàn phóng viên của TTXVN theo đoàn quân giải phóng tiến vào Sài Gòn. Ông nhớ rõ cảnh tượng trải dọc xa lộ, khi nhân dân đổ ra đường chào đón bộ đội tiến vào thành phố. Máy ảnh của ông, lúc ấy chỉ còn 13 kiểu phim, được giữ lại cho những khoảnh khắc đặc biệt nhất. Và rồi, thời khắc ấy đến: Chiếc xe tăng mang số hiệu 846 nằm trong đội hình thọc sâu của Quân giải phóng tiến vào cổng Dinh Độc Lập. Theo phản xạ của người làm báo, ông lập tức giơ máy lên chụp, và ghi lại được khoảnh khắc đó. “Một hình ảnh rất đẹp: Nắng rực rỡ, xe tăng vừa vào ngang cổng, cánh cửa sắt đổ sập vẫn nằm trên mặt đất, lá cờ giải phóng tung bay trên tháp pháo trong gió. Cùng với những người lính tăng là các chiến sĩ bộ binh của Sư đoàn 304 đang hành tiến hiên ngang”, ông Hưởng miêu tả, như đang vẽ màu lại cho bức ảnh đen trắng lịch sử ấy. Với nhà báo gạo cội Trần Mai Hưởng, đó cũng là một kỷ niệm không thể nào quên trong cuộc đời làm báo của ông. Ông tin rằng: “Đó là sự may mắn của số phận, bởi chỉ chậm một giây, tôi sẽ không có cơ hội làm lại lần nữa”. Trong ký ức ông, Sài Gòn ngày 30/4/1975 không chỉ có xe tăng hay cờ bay, mà hiện ra với khung cảnh vô cùng rực rỡ, nơi gương mặt người dân, từ em bé đến người già, ánh lên niềm vui và hy vọng, có những nụ cười và cả những giọt nước. Nhân dân đổ ra đường, vẫy tay chào đón bộ đội, trao những cái ôm nồng hậu đến những người lính giải phóng. “Sài Gòn ngày giải phóng sống động lắm, như một bức tranh với đầy đủ các sắc thái, từ tiếng cười, tiếng khóc, đến những cái nắm tay siết chặt”, nhà báoTrầnMai Hưởng chia sẻ. Với bảy thước phim cuối cùng, ông đã tạo nên một phóng sự ảnh quý giá trong ngày của hoà bình, thống nhất, mang tên “Sài Gòn ngày 30/4/1975”. Nhiều năm sau, khi trở lại thành phố Hồ Chí Minh, nhà báo Trần Mai Hưởng đã sáng tác bài thơ “Ý nghĩ trong đêm” như lời tự sự về những ngày tháng không thể quên, những vần thơ gói ghém ký ức về một Sài Gòn rực rỡ ngày thống nhất: “…Tôi đã đến đây Một thời trẻ trung gian khó Khoảnh khắc không quên Ngày hoà bình đầu tiên Tôi đã rời đây Như bao người lính Trở về với ruộng đồng Sau những năm trận mạc Tôi ghé lại đây Cuối đời sương khói Mảnhđất vấnvươngquen lạ Một hình bóng đã xa...”. n NhândânSài GònvuimừngđónđoànQuânGiải phóngngày 30/4/1975. NhàbáoTrần Mai Hưởngvẫy chàongười dân Sài Gòn trên đườngHồng ThậpTự, sáng 30/4/1975. NGAYNAY.VN 5 Sốđặcbiệt THỐNGNHẤTĐẤTNƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2025)
Nửa thế kỷ đã trôi qua, ký ức về ngày 30/4/1975 vẫn vẹn nguyên trong tâm trí những người từng chứng kiến thời khắc lịch sử ấy. Ngày mà đoàn xe tăng của Quân Giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập, kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài hơn hai thập kỷ, thống nhất đất nước Việt Nam. Với cựu chiến binh Trần Bình Yên, người cầm lái chiếc xe tăng 846 tiến vàoDinhĐộc Lập ngày 30/4, những hồi ức ấy không chỉ là một phần của lịch sử hào hùng, mà còn là những năm tháng tuổi trẻ hết lòng cống hiến cùng đồng đội vì lý tưởng cao đẹp và khát vọng hoà bình. Tiến công vào Dinh Độc Lập Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, người lính Trần Bình Yên tham gia chiến đấu tại Đại đội 5, Tiểu đoàn 2 (Lữ đoàn tăng thiết giáp 203, Quân đoàn 2). “Những ngày cuối cùng của chiến dịch, đơn vị chúng tôi được giao nhiệm vụ hành quân đặc biệt bí mật, trong đó xe tăngmang số hiệu 846 do tôi cầm lái nằm trong đội hình lực lượng thọc sâu, đánh trực diện tiến vào Sài Gòn. Quá trình hành quân chủ yếu diễn ra vào ban đêm, tập trung chiến đấu đập tan tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch từ xa”, ông Yên nhớ lại. Ngày 26/4/1975, khi Chiến dịch Hồ Chí Minh bước vào giai đoạn quyết định, mũi đột kích thọc sâu gồm bảy xe tăng và một xe thiết giáp đánh thẳng vào căn cứ Nước Trong, Long Thành (thuộc tỉnh Đồng Nai hiện nay) - đây là tuyến phòng thủ vòng ngoài đầu tiên của địch, nhằm mở đường cho đoàn quân của ta tiến vào Sài Gòn. Tuy nhiên, trận đánh tại căn cứ Nước Trong gặp nhiều khó khăn do quân địch bố trí phòng thủ dày đặc, coi đây là pháo đài tử thủ, trong khi lực lượng ta tương đối mỏng. “Ban đầu, Đại đội 5 có tổng cộng tám xe tham gia chiến đấu, nhưng chỉ sau một ngày đánh đã chịu thiệt sập bằng mìn nhằm chặn đội hình tiến công của ta. Phải đến mờ sáng, khi công binh khắc phục xong, các xe tăng mới có thể tiếp tục hành quân, vượt ngã ba cầu Long Bình trên xa lộ 1. Tại đây, mũi trinh sát đi đầu đã bắn cháy một xe tăng M41 và một xe bọc thép M113 của địch. Theo trí nhớ của cựu chiến binh Trần Bình Yên, sau khi vượt qua được chốt chặn tại ngã ba Thủ Đức, đến cầu Sài Gòn, Đại đội tiếp tục bị xe tăng, tàu chiến, máy bay của địch liên tục nã đạn tấn công. “Một xe tăng bị đạn bắn trúng xích, một xe bị bắn cháy, hai xe phía sau lùi lại tránh đạn thì bị sa lầy, xe tăng 846 do tôi lái rất may đã kịp thời tránh qua một bên và sau đó bắn hạ được một chiếc xe tăng địch. Tình hình lúc đó rất may lực lượng cao xạ đã kịp thời nổ súng yểm trợ, ép máy bay địch vọt lên hại rất nặng nề khi bị địch bắn hỏng hai chiếc xe tăng và một xe thiết giáp, cháy mất hai chiếc xe tăng khác, chỉ còn ba chiếc xe tăng là 846, 844 và 917 có thể tiếp tục hành quân. Đến chiều 27/4, lực lượng của chúng tôi được điều động bổ sung xe tăng 380 tiếp ứng, nhưng cũng chỉ sau một ngày đánh chiếc xe bị trúng đạn khiến trưởng xe bị thương và một pháo thủ phải hy sinh. Trước tình hình đó, Lữ đoàn 203 đã điều tiếp bốn xe thuộc lực lượng dự phòng của Đại đội 4, Tiểu đoàn 1 để phối hợp cùng đơn vị chúng tôi. Đến trưa 29/4, sau bao nỗ lực và hy sinh, căn cứ Nước Trong cuối cùng đã được giải phóng”, ông Yên kể lại. Sau trận Nước Trong, một lực lượng thọc sâu mới được thành lập, với sự chỉ huy của Đại đội trưởng Bùi Quang Thận, Đại đội phó Nguyễn Quang Hòa và Chính trị viên Vũ Đăng Toàn. Mũi kích được củng cố với lực lượng bộ binh tham gia hiệp đồng tác chiến, tiến công theo trục đường 15, vừa tiến vừa đánh địch. Hành trình tiến vào Sài Gòn của quân đội ta gặp phải rất nhiều những trận đánh ác liệt. Đêm 29/4, đoàn quân đến cầu Sông Buông, nơi địch đang tìm cách đánh của người lính cầm lái xe tăng 846... PHẠM BÍCH NGỌC Chiến tranh đã lùi xa, những gì của hôm nay không chỉ là nền hòa bình, thống nhất khắp hai miền Nam - Bắc mà còn bao tiếc thương, trăn trở chưa nguôi trong lòng cựu chiến binh năm xưa. Xe tăng846 tiến qua cổngDinh Độc Lậpngày 30/4/1975. Trăn trở NGAYNAY.VN 6 Sốđặcbiệt 50NĂMNGÀYGIẢI PHÓNGMIỀNNAM
cao để giải vòng vây cho mũi thọc sâu”, ông Yên cho biết. “Quân địch rút về phòng thủ tại cầu Thị Nghè, tiếp tục nã đạn vào lực lượng của ta khiến một trinh sát hy sinh. Chúng tôi phải bắn cháy hai xe tăng địch nữa mới mở được đường tiến vào Dinh Độc Lập”. Sáng 30/4/1975, xe tăng số hiệu 843 do Trung uý Bùi Quang Thận làm trưởng xe dẫn đầu, truy kích quân địch tháo chạy, dẫn đầu đội hình tiến thẳng vào Dinh Độc Lập. Đến cổng Dinh, xe 843 húc vào cổng phụ bên phải, bị mắc kẹt dừng lại. Trung uý Thận lập tức rời xe, chạy lên nóc Dinh cắm cờ giải phóng. Cùng lúc đó, xe tăng 390 lao đến húc đổ cổng chính, theo sau là các xe còn lại, trong đó có xe tăng 846 do ông Trần Bình Yên lái, tiến vào sân Dinh lúc 11 giờ 30 phút, đánh dấu thời khắc Sài Gòn hoàn toàn giải phóng. Khắc khoải tìm lại đồng đội cũ “Ngay tại khoảnh khắc ấy trong tôi thực sự không có quá nhiều cảm xúc, bởi tôi chỉ nghĩ mình đang làm nhiệm vụ, ở tại xe tăng sẵn sàng vị trí chiến đấu, chứ chưa nghĩ đến chiến thắng. Sau đó, Quân đoàn lập tức giao cho các thành viên xe tăng 846 chúng tôi nhiệm vụ trấn giữ bên ngoài cổng Dinh Độc Lập, ngăn các lực lượng khác tiếp cận khu vực”, cựu chiến binh Trần Bình Yên nhớ lại. “Mãi đến khi mọi công việc được ổn định, anh em tổ chức nấu cơm, tôi mới cảm nhận rõ rệt niềm hạnh phúc vỡ oà. Suốt nhiều ngày kéo dài từ 26 đến ngày 30/4, chúng tôi mới có được bữa cơm ấm cúng như vậy”. Khi chiến tranh đã khép lại, được sống trong những tháng ngày bình yên của hòa bình, thống nhất, ông Yên mới cảm nhận được niềm xúc động sâu sắc. “Nhìn lại, tôi thấy tự hào, nhưng cũng rất đau lòng, xót xa. Tự hào vì chúng tôi đã chiến đấu hết mình trong những năm tháng gian khổ vì nhiệm vụ thiêng liêng của Tổ quốc. Thế nhưng, đau lòng vì quá nhiều đồng đội đã ngã xuống, quá nhiều người đã hy sinh, họ mãi mãi nằm lại chiến trường”, ông Yên ngậm ngùi chia sẻ. Năm thập kỷ đã đi qua, người cựu chiến binh lái xe tăng năm xưa vẫn mang trong lòng một nỗi trăn trở khôn nguôi: Tìm lại thông tin về hai người lính bộ binh đã cùngôngchiếnđấu trênchiếc xe tăng số hiệu 846 năm xưa trong những ngày cuối cùng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Dù bằng nhiều hình thức liên lạc, nhiều phương tiện thông tin khác nhau, ông Trần BìnhYên vẫnmònmỏi đi tìm lại những người đồng đội cũ của mình. “Những người lính bộ binh ấy được điều động để hỗ trợ chúng tôi tác chiến trong quá trình tiến vào Sài Gòn. Mũi kích thọc sâu của chúng tôi tiến quân với tinh thần “thần tốc và quyết thắng”, chiến sự cấp bách khi đó khiến chúng tôi quên đi những giao tiếp đời thường nhất.Tôi chỉ nhớcómột người tên là Biên, nhưng không biết gì hơn, không tên, không tuổi, không quê quán…”, ông Yên nói trong sự day dứt. “Tôi đã tìmkiếmkhắp nơi, hỏi han đồng đội, liên lạc với các đơn vị nhưng vẫn chưa có manh mối thông tin nào”. Những người lính năm xưa, chưa kịp biết tên, biết quê quán của nhau, vẫn sát cánh bên nhau trong những giờ phút sinh tử, họ gắn kết với nhau bởi ý chí sắt đá giành bằng được hòa bình, thống nhất cho Tổ quốc. “Nếu ngày ấy tôi hỏi tên, biết quê quán của họ, có lẽ giờ đã khác, chúng tôi đã có thể cùng vui trong những ngày tháng Tư ý nghĩa này”, ông Yên giãi bày. Nỗi trăn trở này không chỉ là của riêng ông, mà còn là của một thế hệ từng tham gia chiến đấu vì hòa bình, nơi những người lính “bất đắc dĩ trở thành vô danh” đã góp phần làm nên lịch sử. n Nếu ngày ấy tôi hỏi tên, biết quê quán của họ, có lẽ giờ đã khác, chúng tôi đã có thể cùng vui trong những ngày tháng Tư ý nghĩa này. Cựu chiến binh Trần Bình Yên Cựu chiếnbinhTrầnBìnhYên, người lái xe tăng846 tiếnvào DinhĐộc Lập trongngày 30/4/1975. Người dân chàođónQuânGiải phóng tiếnvàoSài Gònngày 30/4/1975. NGAYNAY.VN 7 Sốđặcbiệt THỐNGNHẤTĐẤTNƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2025)
“Thoắt đến thoắt đi thoắt vượt cổng trời” Năm 1966 -1968, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ tăng cường chiến tranh phá hoại hậu phương miền Bắc nước ta. Không quân Mỹ dốc sức đánh nhằm ngăn chặn các tuyến giao thông vận tải, chi viện cho miền Nam, đặc biệt chú trọng đánh phá suốt ngày đêmđường 12, trục vượt khẩu chủ yếu lên Tây Trường Sơn. Trước tình hình đó, Đảng bộ Đoàn 500 (trực thuộc Bộ Tư lệnh 559) đã ra Nghị quyết “Tập trung lực lượng với số lượng cán bộ, chiến sĩ có kinh nghiệm vào sâu các hướng chiến trường”, đồng thời, đưa ra một quyết định táo bạo, thành lập đơn vị Nữ lái xe để hỗ trợ cho kho trạm thay cho lái xe nam ra trận. Đoàn 500 giao nhiệm vụ cho Binh trạm 9, Binh trạm 12 tuyển chọn gấp 1 số chị em từ thanh niên xung phong và bộ đội ở các binh trạmvề đào tạo lái xe trong 45 ngày đêm, gồm 35 chị lái xe và 5 chị sửa chữa máy, điện thông thường. Từ những miền quê khác nhau, 40 nữ thanh niên xung phong tuổi từ 18 đến 20 tuổi đã gặp nhau trong khóa huấn luyện cấp tốc 45 ngày ở trường lái 255 (nay là trường Trung cấp Kỹ thuật xe - máy Sơn Tây) và trở thành những nữ lái xe chia lửa với đồng đội trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử. Tất cả đều được biên chế vào Trung đội độc lập mang tên nữ anh hùng Quân giải phóngmiềnNamNguyễn Thị Hạnh, trực thuộc Tiểu đoàn 204 Đoàn 500 đóng tại miền Tây giáp ranh với địa phận tỉnh Hà Tĩnh - Quảng Bình do chị Phùng Thị Viên làm Đại đội trưởng. Bốn mươi người là 40 câu chuyện, 40 số phận. Trung tá Nguyễn Thị Hòa, nguyên chính trị viên Đội lái xe (hiện là Trưởng ban liên lạc Đơn vị nữ lái xe Trường Sơn) sinh ra ở vùng đất lúa Hải Hậu, Nam Định. Từ năm 17 tuổi, bà đã tham gia phong trào địa phương, với nhiều hoạt động như dân quân tự vệ, làm quân báo…Phongtràophụ nữ ở địa phương hồi đó mạnh mẽ, sôi nổi lắm. Tháng6/1966, bàNguyễn Thị Hòa làm đơn tình nguyện đi bộ đội, đầu quân cho đơn vị tân binh huấn luyện 3 tháng ở Đoàn 9 Bộ Quốc phòng, sau đó được điều đi học cán bộ những tuyến đường đó đều ghi dấu chân những nữ chiến sĩ lái xe Trường Sơn chúng tôi. Chúng tôi ví Cổng Trời như “cửa tử”, bởi nó là túi bom, thường xuyên máy bay ném xuống cổng trời để cắt đứt mạch máu giao thông của ta. Cổng Trời dốc đứng, khó đi, đường trơn và rất nhỏ, một bên là vách núi dựng đứng, một bên là vực thẳm hun hút. Để đảmbảo an toàn và bí mật, đội xe chủ yếu hành quân ban đêm, xuất phát từ 17h chiều hôm trước, về đơn vị lúc 5h sáng hôm sau. Các chị phải đi trong đêmbằng ánh sángmờ của “đèn rùa”, qua các điểm đánh kiểu huỷ diệt, người và Chính trị 6 tháng rồi chuyển về Nhàmáy Q151 Cục Quản lý xe máy, Tổng cục Hậu cần. Ở đây, bà phụ trách phong trào công đoàn, rồi được điều động lên Ban Chính trị nhà máy, làm công tác tổ chức Đảng vụ. Năm 1972, bà Hòa được điều sang làm cán bộ chính trị viên Trung đội Nguyễn Thị Hạnh. Trung tá Nguyễn Thị Hòa nhớ lại: “Hồi đó, ai cũng chỉ cao 1,50mđến1,55m, chỉ có chị Nguyệt Ánh là cao nhất 1,68m. Thế mà những chiếc xe tải như Zin, Gaz… sừng sững, nặng nề khiếnai cũng sợphát ốm đều được các chị em chúng tôi “thuần phục”. Ngồi trên buồng lái, các chị đặt thêm một thanh gỗ phía sau đệmghế để đẩy cao người hướng về phía trước, giữchặt tay lái. Chỉ trong vòng hơn một tháng, những “con ngựa sắt” đã bị “thuần phục”, chuẩn bị lên đường tải đạn dược, lương thực và bộ đội vào chiến trường miền Nam…”. “Nhiệm vụ của Trung đội chúng tôi là chở hàng từ Vinh, Nghệ An và giao hàng tại các kho trạm trên tuyến đường 12, 18, 20, 22, nhận xe từ cửa khẩu biên giới phía Bắc bàn giao cho chiến trường miền Nam; chở thương binh, cán bộ từ miền Nam ra miền Bắc chữa bệnh, an dưỡng, học tập. Tuyến hoạt động chủ yếu là từ Bến Thuỷ đến Tây Trường Sơn, trong đó, có nhiều trọng điểmphải vượt qua nhưĐồng Lộc, Khe Ve, Long Đại, 050, Cổng Trời… Đó là những nơi túi bom địch tàn phá ác liệt nhất, gần như 24/24. Hầu như, Những bông hồng Cuối năm 1975, nhiệm vụ hoàn thành, chúng tôi, có người trở về đơn vị, người chuyển ngành, người về địa phương và đồng ruộng. Chiến tranh đã qua đi, nhưng những khoảnh khắc cuộc đời trong những chuyến xe đã trở thành tiềm thức và niềm tự hào của những nữ lái xe Trường Sơn một thuở. Bà Nguyễn Thị Hòa HUYỀNTRANG Chiến tranh đã trôi qua 50 năm, những nữ chiến sĩ lái xe Trường Sơn trong Đại đội nữ lái xe Trường Sơn (tiền thân là Trung đội nữ lái xe Nguyễn Thị Hạnh) đã trở về thời bình sau khi cùng đồng đội viết lên bài ca quyết thắng, bài ca về tình đồng đội… Các nữ chiến sĩ gặpmặt PhóChủ tịchnước TrươngMỹHoa. ĐườngTrườngSơn ra tiền tuyến. (ẢnhTTXVN). NGAYNAY.VN 8 Sốđặcbiệt 50NĂMNGÀYGIẢI PHÓNGMIỀNNAM
xe có thể lao xuống vực hoặc nổ tung, sống và chết cách nhau một gang tấc. Chính vì thế, trước những chuyến đi, nhiều chị đã được đơn vị làm lễ“truy điệu sống”. Thế nhưng, vượt trên tất cả những khó khăn, gian khổ là lòng dũng cảm và sự mưu trí, các chị đã vượt qua hàng ngàn đêmnhư thếmà vẫn an toàn tínhmạng, hơn thế còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ đó đã được thể hiện qua các đợt thi đua như: “Tăng cung vượt chuyến, đầu xe Hồng Gấm tay lái 8/3…”, bà Hòa kể. Trong suốt thời gian từ khi thành lập đến năm 1973, Trung đội “tóc dài” Nguyễn Thị Hạnh đã vận chuyển được hàng vạn tấn hàng, hàng trăm ngàn bộ đội, thương binh vào Nam ra Bắc. Những chuyến xe chở hàng hóa, lương thực, bộ đội cũng “chở” luôn biết bao kỷ niệm. Các chị trên xe vừa là “thợ lái”, vừa là hộ lý, khiêng cáng thương binh. Có thương binh cụt cả hai đùi, không biết bám vào đâu, buộc phải cõng trên lưng, có ngày cả đoàn xe đi đêm bằng đèn gầm qua Ngã ba Đồng Lộc, qua các đường địch bắn phá, thậm chí xehỏnggiữađường, các chị lại là thợ sửa chữa để kịp thời giải phóng cho xe đi. Lòng yêu nước với đội nữ lái xe dồn hết vào buồng lái, với câu hát anh hùng: “Yêu xe như con, yêu xăng như máu”, để “Xe con gái cứ như huyền thoại/Thoắt đến thoắt đi thoắt vượt cổng trời”… Trung đội đặc biệt với nhiệm vụ đặc biệt Giữabomđạnchiếntranh, các chiến sĩ Trung đội luôn gần gũi, chia sẻ nhau những khó khăn trong cuộc sống. Bà NguyễnThị Hòa nhớ rất rõ chị Viên - Trung đội trưởng luôn gần gũi, động viên an ủi từng chị em, chị em nào ốm hoặc “đến tháng” đều được nghỉ ngơi để chị lái thay. “Chị Viên thẳng thắn, có gì góp ý luôn. Chị Nguyệt Ánh cao nhất trung đội, rất nhanh nhẹn và tháo vát. Chị Vân người nhỏ nhỏ, xinh xinh nhưng kiên gan…”- Bà vẫn thuộc tên nhớ mặt tất cả những người chị đã cùng bà vào sinh ra tử, cùng nhau vượt dãy Trường Sơn mang bao thành tích về cho quê hương đất nước. “Trung đội chúng tôi được coi là “trung đội đặc biệt có một không hai” bởi những nhiệm vụ đặc biệt được giao thời ấy. Trong kháng chiến, chúng tôi có những phong trào thi đua sôi nổi như Đầu xe Hồng Gấm, Tay lái 8/3 (Xe giữ lái đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật sau tay lái an toàn, đạt danh hiệu Đầu xe Hồng Gấm; tay lái “lụa”đạt danh hiệu tay lái 8/3). Các phong trào văn nghệ thơ ca rộn ràng, phong phú, không chỉ khiến cho cuộc sống của các nữ chiến sĩ thêm phần thú vị, mà còn giao lưu với nhân dân địa phương. “Tiếng hát át tiếng bom”, chúng tôi trao nhau tình yêu thương, cùng động viên nhau vượt qua khó khăn, bom đạn”, bà Hòa chia sẻ. Sau này, đến tháng 2/1972, do yêu cầu nhiệm vụ đặc biệt, Đội nữ lái xe được Bộ Tổng tham mưu Bộ Quốc phòng điều về trường đào tạo lái xe D255 - Cục quản lý xe máy làm giáo viên dạy lái xe nữ. Ở vị trí công tác mới, bằng những bài học kinh nghiệm thực tế, bà Hòa và đồng đội đã truyền dạy cho 300 cô gái trở thành lái xe phục vụ cho các bệnh viện quân đội, kho xe, kho hàng thay cho lái xe nam ra trận. Năm 1973, Bộ Quốc phòng tập trung các chị em lái giỏi về tập huấn duyệt binh ở Sân bay Bạch Mai, đến năm 1975, trong lễ duyệt binhmừng đất nước hoàn toàn giải phóng ở Quảng trường Ba Đình, đội hình duyệt binh có các chị em lái xe chỉ huy khối thông tin, khối nữ dân quân Quảng Bình… Ghi nhận những chiến công của những con người dũng cảm anh hùng, Đảng và Nhà nước đã tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba, Huân chương kháng chiến cho nhiều bông hồng lái xe Trường Sơn. Năm 2014, ghi nhận những chiến công và thành tích xuất sắc của Đại đội nữ lái xe Trường Sơn, Nhà nước đã phong tặng đơn vị danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đại đội trưởng PhùngThị Viên (đã mất) được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. “Cuối năm 1975, nhiệm vụ hoàn thành, chúng tôi, có người trở về đơn vị, người chuyển ngành, người về địa phương và đồng ruộng. Chiến tranh đã qua đi, nhưng những khoảnh khắc cuộc đời trong những chuyến xe đã trở thành tiềm thức và niềm tự hào của những nữ lái xe Trường Sơnmột thuở”, bàHòa khẳng định. n Đoàn xe vận tải quânđội 559đưahànghóavào chiến trường, vượt qua trọngđiểmNgã3Đồng Lộc, Nghệ Tĩnh. (ẢnhTTXVN). Trung táNguyễnThị Hòa trong thời bình. Đội Nữ lái xe chụpảnhkỉ niệmvới PhóChủ tịchnước VõThị ÁnhXuânnăm2022. NGAYNAY.VN 9 Sốđặcbiệt THỐNGNHẤTĐẤTNƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2025)
Ở tuổi 87, khi nhiều đồng đội đã an hưởng tuổi già bên con cháu, ông Đoàn Trọng Tước - cựu chiến binh từng vào sinh ra tử trên tuyến lửa Trường Sơn lại “tái xuất” trên một chiến trường hoàn toànmới: Mạng xã hội. Không kỹ xảo cầu kỳ, không âm thanh súng đạn, mỗi phiên live của ông Tước chỉ đơn giản là hình ảnh người lính già tóc bạc với giọng kể trầm ấm, mạch lạc pha chút hài hước, trò chuyện với các cháu thanh niên trẻ, thế hệ đi sau những mẩu chuyện chiến tranh. Những câu chuyện của ông chân thực đến mức người xem cảm nhận được mùi đất rừng Trường Sơn, cái đói khát trong những ngày hành quân, cả sự sống sótmong manh giữa ranh giới của sinh tử. Khác với nhiều nội dung lịch sử mang tính học thuật, phần lớn các buổi livestream của ông là những câu chuyện đời thực, như lầnbị sốt rét hay trận đánh giữa rừng khiến ông cùng tiểu đội chỉ còn hai người sống sót. Sự mộc mạc, giản dị và chân thành ấy khiến ông Đoàn Trọng Tước trở thành “hiện tượng” trên TikTok, giúp người trẻ hiểu hơn về thời chiến, đặc biệt là về hành trình gian khổ vượt Trường Sơn và những trận đánh khốc liệt ở chiến trường Đông NamBộ. Ngày 1/12/2024, kênh của ông Tước đăng tải video đầu tiên. Hơn bốn tháng sau, tính đến 13/4/2025, kênh của ông đã thu hút hơn 384.000 lượt theo dõi và hơn 527.000 lượt yêuthích,một consốấntượng ngay cả với các nhà sáng tạo nội dung chuyên nghiệp. Sau hành trình vượt Trường Sơn, ông chiến đấu ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, nơi được mệnh danh là “chảo lửa” với những trận đánh khốc liệt. Trong suốt 10 năm chiến đấu không ngơi nghỉ, ông Tước từng nhiều lần đứng giữa ranh giới sống - chết. Theo lời ông kể, một trong những ký ức ám ảnh nhất là trận tập kích bất ngờ của địch vào căn cứ đơn vị ông tại vùng rừng Phước Long năm 1968, sau đợt Tổng tiến công Mậu Thân. Khi vừa rút quân về căn cứ để nghỉ ngơi, đơn vị ông bị pháo 175 ly của địch nã cấp tập suốt 30 phút, sau đó là đợt tấn công bằng trực thăng vũ trang. Nhờ hệ thống hầm hào kiên cố và tinh thần cảnh giác cao độ, toàn bộ đơn vị đã thoát khỏi thương vong nghiêm trọng. Không lâu sau đó, ông được điều về đội cảnh vệ, chuyên trách bảo vệ Bộ Chỉ huy Quân khu 10, một nhiệm vụ yêu cầu cả sức khỏe lẫn bản lĩnh. Trong một lần tuần tra, ông và tổ trinh Bước chân không mỏi giữa rừng thiêng nước độc Sinh ra tại xã Phú Đông, huyện Ba Vì, Hà Nội, ông Đoàn Trọng Tước lớn lên trong bối cảnh đất nước bước vào một cuộc chiến cam go, đó là kháng chiến chống Mỹ. Tuổi thơ của ông gắn liền với đồng ruộng, làng quê Bắc Bộ nghèo khó nhưng đầy nghĩa tình. Chính ký ức thời thơ ấu ấy đã gieo vào ông lòng yêu nước sâu sắc và lý tưởng cách mạng cao cả. Ông Đoàn Tước bồi hồi nhớ lại: “Năm 1965, theo tiếng gọi của Đảng, của Bác Hồ, của miền Nam, tôi xung phong lên đường nhập ngũ”. Ngày 10/2 năm ấy, ông chính thức khoác lên mình bộ quân phục màu cỏ úa và trở thành chiến sĩ cách mạng. Ông làm nhiệm vụ trong một đơn vị được giao nhiệm vụ đặc biệt: hành quân vượt Trường Sơn để chi viện cho chiến trường miền Nam. Đó là thời điểm mà tuyến đường mòn Hồ Chí Minh vẫn còn đầy rẫy hiểm nguy, chưa được mở rộng và phần lớn vẫn là lối mòn len lỏi qua núi rừng. Chuyến hành quân của ông kéo dài bốn tháng. Từ Hà Nội, ông cùng đồng đội băng rừng, lội suối, vượt qua Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây, có những đoạn phải đi vòng qua đất bạn Lào, trước khi tiến về tỉnh Phước Long (nay là Bình Phước). Ông kể rằng ngày đầu xuất quân, mỗi người được phát hai bộ quần áo, một đôi dép cao su, một khẩu AK cùng 400 viên đạn, thêm vào đó là 2 kg muối và một ít mắm chua. Thực phẩm thiếu thốn, họ sống nhờ rau rừng, trái cây dại, đôi khi phải hái măng rừng và luộc ăn không muối. Có lần, ông bị sốt rét ác tính, rơi vào trạng thái mê man suốt nhiều ngày. Đồng đội lo sợ ông không qua khỏi nên đã đào sẵn huyệt chờ. Nhưng bằng nghị lực phi thường, ông tỉnh lại, sống sót như một kỳ tích giữa rừng thiêng nước độc. Với ông, đó là lần “tái sinh” đầu tiên giữa chiến tranh. Người lính kể chuyện Trường Sơn MINH NGỌC “Ông kể chuyện về cuộc kháng chiến chống Mỹ”- lời giới thiệu đơn giản từ tài khoản Tik Tok Đoàn Tước (sinh năm 1938) vẫn có sức hút kỳ lạ với hàng ngàn lượt xemmỗi phiên live lúc19h30 tối thứ Sáu, thứ Bảy, Chủ nhật hàng tuần. Nhữnghuân chương, huy hiệu, kỷ niệm chươngmà cựu chiến binhĐoàn Tước được trao tặng. NGAYNAY.VN 10 Sốđặcbiệt 50NĂMNGÀYGIẢI PHÓNGMIỀNNAM
sát phát hiện địch chuẩn bị bao vây trụ sở chỉ huy. Trong gang tấc, ông đã khai hỏa cảnh báo và kịp thời sơ tán Bộ chỉ huy trước khi kẻ địch ập tới, một hành động được đồng đội gọi là “cuộc cứu nguy lịch sử”. Không chỉ là người lính trực tiếp cầm súng, ông còn là nhân chứng sống cho rất nhiều sự kiện quan trọng của cuộc kháng chiến. Ông nhớ rõ từng trận đánh, từng buổi hành quân đêm, từng bữa cơm chỉ có măng luộc và nước suối. Đó không chỉ là ký ức, mà là máu thịt của một đời người gắn bó trung thành với cách mạng. Năm 1976, ông được trao tặng nhiều phần thưởng cao quý, ghi nhận những đóng góp thầm lặng nhưng bền bỉ suốt hơn một thập kỷ trong quân ngũ. “Cầu nối” giữa lịch sử và thời đại Không chỉ dừng lại ở việc kể chuyện, nhắc lại quá khứ hào hùng, ông Tước còn kiên nhẫn trả lời từng câu hỏi của người trẻ sau mỗi buổi livestream. Dù đôi mắt đã mờ, tai không còn thính như trước, nhưng ông vẫn luôn cố gắng đọc bình luận, gọi các bạn trẻ là “các cháu”, xưng “bác”, một cách xưng hômộcmạcmà đầy tình cảm gắn bó. Những bình luận bên dưới các video của ông Tước thường là những chia sẻ đầy kính trọng: “Cháu chưa từng thấy lịch sử gần gũi đến vậy”, “Ông kể chuyện hay quá, cháu đã tìm và xem lại từ những video đầu tiên”… Hàng trăm nghìn lượt xem và tương tác không phải là minh chứng cho độ nổi tiếng, mà phản ánh nhu cầu rất thật của người trẻ. Giới trẻ không thờ ơ với lịch sử, chỉ là họ đang cần một cách tiếp cận gần gũi và chân thật hơn. Chính vì thế, ông Tước trở thành cầu nối sống động giữa hai thế hệ: thế hệ từng sống trong chiến tranh và thế hệ chỉ biết về nó qua sách vở. Không ít bạn trẻ trả lời dưới các video rằng sau khi xem TikTok của ông Đoàn Tước đã bị “dụ dỗ” tìm đọc thêm sách lịch sử, xem phim tài liệu về chiến tranh, khơi dậy ham muốn khám phá thật sâu về các chiến dịch như Mậu Thân 1968, Chiến dịch Trường Sơn... Nhiều bạn trẻ thậm chí còn chia sẻ quamàn hình điện thoại Ởthời đạimà thông tin được tiêu thụvới tốcđộ chóngmặt, nơi các video ngắn, giải trí nhẹnhàng chiếmlĩnh tâmtrí người trẻ, thì việcmột người lính giàdùngchínhkýức chiến tranh làmnội dung lan tỏa lại trở thànhmột hiện tượngđặcbiệt. cơ duyên chọn ngành học liên quan đến lịch sử, bảo tàng hoặc truyền thông văn hóa chính là sau khi theo dõi kênh Tiktok của ông Tước. Ở thời đại mà thông tin được tiêu thụ với tốc độ chóng mặt, nơi các video ngắn, giải trí nhẹ nhàng chiếm lĩnh tâm trí người trẻ, thì việc một người lính già dùng chính ký ức chiến tranh làm nội dung lan tỏa lại trở thành một hiện tượng đặc biệt. Thú vị hơn, giữa một xã hội mà khoảng cách thế hệ đang ngày càng lớn, việc một người lính già như ông Tước “truyền lửa” qua màn hình điện thoại là một minh chứng sống cho sức mạnh kết nối của ký ức và công nghệ. Lịch sử, nhờ vậy, không còn là thứ khô cứng trong sách vở, mà trở thành trải nghiệm sống động, có thật và thực sự gần gũi. n Cựu chiếnbinh ĐoànTrọng Tước, nhân chứng sống của chiến tranh. Ảnh: Tài khoản củanhânvật. KênhTik tok của cựu chiếnbinhĐoànTrọngTước thuhút nhiềubạn trẻ. NGAYNAY.VN 11 Sốđặcbiệt THỐNGNHẤTĐẤTNƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2025)
RkJQdWJsaXNoZXIy MTA3Mzg1MA==