Năm 2020 là năm khởi động thành công Chương trình chuyển đổi số quốc gia, tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động chuyển đổi số trong cả nước. Hầu hết các bộ, ngành, địa phương đã và đang lập kế hoạch chuyển đổi số. Sự chuyển đổi thể hiện linh hoạt trong hoàn cảnh dịch COVID-19 như thay đổi hình thức làm việc từ trực tiếp tại cơ quan sang trực tuyến - họp trực tuyến, tư vấn y tế từ xa và học trực tuyến... Chuyển đổi số đã thay đổi thói quen và cách làm việc trước đây.
_____________________________
Theo Liên hiệp quốc (UN, 2014), Chính phủ điện tử hay chính phủ số là việc sử dụng và áp dụng công nghệ thông tin trong hành chính công nhằm hợp lý hóa và tích hợp quy trình công việc và các quy trình, để quản lý dữ liệu và thông tin hiệu quả hơn, tăng cường cung cấp dịch vụ công cộng và mở rộng các kênh truyền thông để tham gia và trao quyền cho mọi người.
Cho đến nay, chính phủ cũng đã sử dụng Internet, công nghệ thông tin và truyền thông để điều hành chính phủ nhưng người dùng chủ yếu là công chức chính phủ, khác với chính phủ điện tử, phần đông là người dân truy cập vào các dịch vụ công qua các Web portal - cổng dịch vụ công bằng mobile hay máy tính cá nhân.
Nền kinh tế số là nền kinh tế dựa trên Công nghệ thông tin (CNTT) và Truyền thông (TT) – Tiếng Anh gọi là ICT, chẳng hạn như Internet, điện thoại thông minh, mạng di động và không dây, mạng cáp quang, Internet vạn vật (IoT), lưu trữ dữ liệu lớn và điện toán đám mây, chia sẻ dịch vụ, ứng dụng và tiền điện tử. Quy mô và tác động của nền kinh tế số là được thúc đẩy bởi việc mọi người áp dụng những công nghệ này.
CNTT-TT ở khắp mọi nơi xung quanh chúng ta - Internet, điện thoại thông minh, máy tính xách tay, mạng không dây, ứng dụng và dịch vụ video trực tuyến, chẳng hạn như Netflix và HBO. CNTT-TT đã trở nên phổ biến, ít nhất là ở các nước phát triển.
Tốc độ đổi mới trong CNTT-TT diễn ra nhanh chóng và các công nghệ mới đang xuất hiện hàng năm. Trong vài thập kỷ qua, CNTT-TT đã thay đổi cách chúng ta làm việc, cách chi tiêu, đầu tư tiền và cách tiến hành công việc kinh doanh của mình. Viễn thông, tài chính và truyền thông là những ngành mà CNTT-TT đã thay đổi đáng kể bối cảnh kinh doanh.
Spotify và các nhà cung cấp dịch vụ âm nhạc trực tuyến khác đã thay đổi hoàn toàn các mô hình kinh doanh của ngành công nghiệp âm nhạc; đặc biệt là dòng doanh thu từ bán lẻ CD. Vì ngày càng có nhiều nhạc được giao dịch trực tuyến, nhu cầu về các cửa hàng vật lý bán đĩa CD gần như biến mất. Doanh số bán đĩa nhạc trên toàn thế giới đã giảm tăng 45% từ năm 1999 đến năm 2014. Năm 2014 cũng đánh dấu năm đầu tiên trực tuyến giao dịch âm nhạc phù hợp với doanh số bán hàng từ các định dạng vật lý, chẳng hạn như CD.
Ngân hàng điện tử đã thay đổi hoàn toàn cách chúng ta - với tư cách là người tiêu dùng - tiếp cận ngân hàng và các tổ chức tài chính khác. Hầu hết các hoạt động liên quan đến tài chính cá nhân hiện nay được thực hiện qua Internet bằng điện thoại thông minh hoặc PC. Đối với người dùng ngân hàng điện tử đang hoạt động, không cần phải đến ngân hàng thực để thanh toán hóa đơn. Các khoản vay có thể được thương lượng với ngân hàng qua Internet. Không cần dùng tiền mặt để thanh toán vé xe buýt, xe lửa, ô tô bãi đậu xe, hoặc taxi.
Tại nhiều sân bay, hành khách tự động làm thủ tục, đưa hành lý lên thắt lưng thả hành lý và đi qua cổng lên máy bay mà không cần sự tham gia của nhân viên mặt đất. Tất cả các dịch vụ hành khách đều hoàn toàn tự động, ngoại trừ kiểm soát an ninh.
Đó là việc sử dụng hàng hóa và dịch vụ kỹ thuật số ngày càng tăng, thường để thay thế cho hàng hóa vật lý và dịch vụ phi kỹ thuật số, chịu trách nhiệm cho sự phát triển này. Kỹ thuật số hàng hóa và dịch vụ là nền tảng thiết yếu của nền kinh tế số. Cũng mặc dù hàng hóa và dịch vụ kỹ thuật số đã dần thay đổi thế giới kinh doanh đối với một sốthời gian trôi qua, chúng ta vừa mới thấy sự khởi đầu của một cuộc cách mạng kinh tế là đầy đủ tiềm năng của nền kinh tế số sắp được khai thác.
Một bước tiến quan trọng khác trong nền kinh tế số là số lượng người sử dụng công nghệ băng hẹp và di động băng rộng công cộng. Di động băng hẹp di động hệ thống (2G) cung cấp các dịch vụ toàn cầu, chẳng hạn như cuộc gọi điện thoại và SMS. Băng thông rộng di động hệ thống di động (3G, 4G và 5G) hỗ trợ việc sử dụng điện thoại thông minh để truy cập Internet. Số lượng người dùng của các mạng di động công cộng đã vượt qua con số của mọi người trên thế giới. Lý do là nhiều người có quyền truy cập vào nhiều hơn một thiết bị; ví dụ, một điện thoại thông minh cá nhân và một điện thoại thông minh cho công việc. Hơn thế nữa, thông tin liên lạc di động được sử dụng làm bộ định tuyến cục bộ và để kết nối các cảm biến và các thiết bị khác trong Internet of Things (IoT) và cơ sở hạ tầng công cộng được định hình bởi số hóa nền kinh tế.
Kinh tế học số là ngành kinh tế học nghiên cứu các dịch vụ kỹ thuật số. Lĩnh vực học thuật của kinh tế số trùng lặp và liên quan đến các lĩnh vực khác của Kinh tế học. Kinh tế số còn được biết đến dưới nhiều tên gọi khác nhau, mỗi chỉ định có trọng tâm và phạm vi hơi khác. Một số trong số này là:
“Kinh tế mạng”: tập trung vào các doanh nghiệp trong đó phần lớn nền kinh tế giá trị được tạo ra bởi các hiệu ứng mạng. Facebook & Twitter là một ví dụ điển hình.
“Nền kinh tế nền tảng”: tập trung vào các doanh nghiệp hoạt động như nền tảng. Các nền tảng điện toán đám mây như Amazon, Google.
“Nền kinh tế dữ liệu”: tập trung vào việc kinh doanh thu hoạch và phân tích dữ liệu. Dữ liệu được thu thập từ người dùng hoặc môi trường và được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu lớn.
“Nền kinh tế Internet”: bao gồm nền kinh tế của hàng hóa và dịch vụ Internet. Vì hầu hết các hoạt động kinh tế trong bối cảnh kinh tế kỹ thuật số là thực hiện qua Internet, nền kinh tế Internet gần với phạm vi kỹ thuật số Kinh tế học.
“Nền kinh tế chia sẻ”: là nền kinh tế trong đó mọi người hoặc tổ chức chia sẻ hàng hóa và dịch vụ, chẳng hạn như Airbnb và Uber.
Các thuật ngữ mới liên tục xuất hiện và mô tả của các thuật ngữ hiện tại được sửa đổi khi các nhà nghiên cứu đạt được mức tăng hiểu biết về lĩnh vực này và khi các công nghệ mới mở rộng ranh giới của nền kinh tế số và tạo cơ hội kinh doanh mới.
Việt Nam cần nghiên cứu phát triển nên chú trọng phát triển nền kinh tế số nào trước tùy theo hoàn cảnh, kinh phí và thế mạnh của mình. Ví dụ, không thể bắt đầu bằng nền “Kinh Tế dữ liệu” khi chưa có nền tảng hay hệ thống thu thập dữ liệu.
Xã hội số đề cập đến các xã hội trong đó việc tạo ra, phổ biến, sử dụng và thao túng thông tin đã trở nên quan trọng đối với các nỗ lực chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
Một phần lớn dân số thế giới, có quyền truy cập vào các nguồn thông tin và công nghệ có thể cho phép họ tham gia trực tuyến vào nhiều hoạt động, có thể là kinh tế, xã hội, chính trị hoặc giáo dục, có thể truyền tải quan điểm và ý kiến của mình tới khán giả toàn cầu, đồng thời giao lưu vượt qua biên giới.
Chuyển đổi số là hướng tới chính quyền số, kinh tế số, xã hội số, nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo và sự vào cuộc quyết liệt đồng bộ của Chính phủ, các cấp, các ngành; gắn trách nhiệm người đứng đầu chính quyền các cấp; nhận thức đầy đủ bản chất, nội hàm của quá trình này; quyết tâm đổi mới tư duy và hành động, coi đó là giải pháp đột phá trong quá trình chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội, cải cách hành chính ở từng cơ quan đơn vị, địa phương.
Bài: Lâm Việt Tùng - Kiến trúc sư CNTT và Viễn thông (từ Hà Lan)
Thiết kế: Thúy Hà