Kế hoạch thực hiện Quy hoạch hệ thống cơ sở xã hội nuôi dưỡng người có công với cách mạng

0:00 / 0:00
0:00
(Ngày Nay) - Phó Thủ tướng Lê Thành Long đã ký Quyết định số 1577/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch hệ thống cơ sở xã hội nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công với cách mạng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Kế hoạch).
Phát triển đội ngũ người lao động của cơ sở xã hội nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công bảo đảm chất lượng.
Phát triển đội ngũ người lao động của cơ sở xã hội nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công bảo đảm chất lượng.

Kế hoạch nhằm mục đích triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định số 1007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch hệ thống cơ sở xã hội nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công với cách mạng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Đồng thời, xác định các nhiệm vụ, giải pháp, danh mục các dự án ưu tiên triển khai thực hiện theo từng giai đoạn từ nay đến năm 2030; tăng cường cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để triển khai thực hiện Quy hoạch, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất và sử dụng tối ưu, hiệu quả nguồn lực.

Ưu tiên đầu tư phát triển mới, nâng cấp các cơ sở hiện có

Theo Kế hoạch, về dự án đầu tư công: Ưu tiên tập trung để thực hiện các dự án xây dựng mới; cải tạo, nâng cấp, mở rộng dự án đã đầu tư xây dựng và mua sắm tài sản, trang thiết bị đồng bộ cho các cơ sở xã hội nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công với cách mạng.

Ưu tiên đầu tư phát triển mới các Trung tâm điều dưỡng người có công tỉnh Tuyên Quang, tỉnh Long An, tỉnh Đồng Tháp, tỉnh An Giang, tỉnh Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ; tỉnh Bạc Liêu; tỉnh Cà Mau. Bên cạnh đó, ưu tiên đầu tư xây dựng, nâng cấp các cơ sở hiện có gồm: Trung tâm điều dưỡng thương binh Kim Bảng; các Trung tâm điều dưỡng người có công tỉnh Thái Nguyên, tỉnh Hải Dương, tỉnh Quảng Ngãi, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Cơ sở 2); Trung tâm điều dưỡng người có công với cách mạng tỉnh Nghệ An.

Về dự án đầu tư sử dụng các nguồn vốn khác ngoài vốn đầu tư công: Đầu tư mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các cơ sở xã hội nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công với cách mạng theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các quy định pháp luật khác có liên quan.

Kế hoạch đề ra các chính sách, giải pháp thực hiện quy hoạch gồm: Thực hiện theo quy định của pháp luật về quy hoạch; hoàn thiện pháp luật, xây dựng cơ chế, chính sách; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và liên kết, hợp tác phát triển; bảo vệ môi trường; tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị; đảm bảo nguồn lực tài chính...

Đồng thời sẽ đẩy mạnh công tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác quản lý, vận hành các cơ sở xã hội nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công với cách mạng.

Đồng thời, phát triển đội ngũ công chức, viên chức, người lao động của cơ sở xã hội nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng; định kỳ bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ công chức, viên chức, người lao động làm việc tại các cơ sở xã hội nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công với cách mạng.

Hoàn thiện chính sách thu hút người lao động có chuyên môn, năng lực vào làm việc tại các cơ sở nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công với cách mạng.

Đầu tư đồng bộ cơ sở vật chất, trang thiết bị

Bên cạnh đó, các địa phương ưu tiên bố trí quỹ đất đầu tư, xây dựng, mở rộng các cơ sở xã hội nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công với cách mạng theo Quy hoạch đã được duyệt và các quy định pháp luật khác có liên quan. Xây dựng, hoàn thiện các tiêu chí, tiêu chuẩn về tài sản, trang thiết bị phục vụ nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công với cách mạng.

Đầu tư đồng bộ cơ sở vật chất và trang thiết bị đối với cơ sở xã hội nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công với cách mạng đạt tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, bảo đảm phù hợp với đặc thù của từng cơ sở, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công với cách mạng./.

Người gieo chữ bằng yêu thương ở làng Hữu Nghị
Người gieo chữ bằng yêu thương ở làng Hữu Nghị
(Ngày Nay) - Làng Hữu nghị Việt Nam được biết đến là nơi cưu mang những nạn nhân chất độc da cam. Ở đó, suốt 13 năm qua, cô giáo Nguyễn Thị Loan đã kiên nhẫn gieo từng con chữ, từng kỹ năng sống và từng niềm hy vọng cho những đứa trẻ mang nhiều khiếm khuyết nhưng luôn khao khát được lớn lên như bao người khác.
Khoảng trống nhận thức về HPV ở nam giới
Khoảng trống nhận thức về HPV ở nam giới
(Ngày Nay) - Từ năm 2026, Chính phủ chính thức đưa vắc xin HPV vào chương trình Tiêm chủng mở rộng quốc gia. Trong bối cảnh đó, việc phòng ngừa các bệnh do virus HPV gây ra không chỉ là câu chuyện của nữ giới còn là mối quan tâm chung của cả cộng đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, nam giới - nhóm đối tượng cũng chịu nhiều nguy cơ từ HPV - vẫn đang đứng ngoài các chiến lược truyền thông và phòng bệnh.
Độc lập và hạnh phúc trong các doanh nghiệp xã hội NICE
Độc lập và hạnh phúc trong các doanh nghiệp xã hội thuộc Mạng lưới NICE
(Ngày Nay) - Có bao giờ bạn tự hỏi liệu những người khuyết tật thật sự cần gì? Họ cần lòng thương cảm? Hay họ cần các món quà vật chất từ các chương trình cứu trợ? Đều không phải. Thứ người khuyết tật cần hơn cả là được nhìn nhận như những công dân bình thường. Họ không muốn bản thân mình trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Họ muốn được thể hiện bản thân, được cống hiến hết mình cho cuộc sống này, để được độc lập và hạnh phúc.
Ảnh minh hoạ.
Tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển giáo dục nghề nghiệp
(Ngày Nay) - Bộ Giáo dục và Đào tạo đang dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục nghề nghiệp nhằm hướng dẫn các quy định mới của Luật Giáo dục nghề nghiệp, kiến tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu của người học, thị trường lao động.
Hoạt động nghiên cứu khoa học tại trường Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (USTH). Ảnh: VGP.
Đầu tư khoa học cơ bản đúng hướng, hiệu quả được đo đếm rõ ràng
(Ngày Nay) - Sau hơn 5 năm triển khai, Chương trình 562 về phát triển khoa học cơ bản đã ghi dấu bằng những kết quả cụ thể: Số lượng và chất lượng công bố quốc tế tăng đều, nhiều nhóm nghiên cứu mạnh được hình thành, vị thế khoa học Việt Nam tiếp tục được củng cố trên bản đồ khu vực và thế giới.