Giữa lúc Hà Nội đang bước vào những ngày Thu đẹp nhất trong năm, cây bút Nguyễn Trương Quý đã dành cho Tạp chí Ngày Nay một cuộc trò chuyện nho nhỏ...
______________
Nhắc đến Nguyễn Trương Quý, người ta nhắc đến ngay những cuốn sách đã trở thành “thương hiệu” của anh, chẳng hạn “Tự nhiên như người Hà Nội”, “Ăn phở rất khó thấy ngon”, “Hà Nội là Hà Nội”, “Còn ai hát về Hà Nội”, “Dưới cột đèn rót một ấm trà”, “Mỗi góc phố một người đang sống”, “Một thời Hà Nội hát - Tim cũng không ngờ làm nên lời ca”, “Hà Nội bảo thế là thường”...
Gặp Trương Quý, không nói về Hà Nội thì nói gì? - Tâm trí tôi từng thoáng qua câu hỏi đó. Nhưng hóa ra, Hà Nội chỉ là cái cớ, còn đằng sau những trang viết tỉ mỉ và chỉn chu của anh là rất nhiều lát cắt thú vị về chuyện đời, chuyện nghề.
- Tôi nên gọi anh là nhà văn, kiến trúc sư, họa sĩ hay biên tập viên?
- Nói chung tùy chủ đề bạn chọn thì tôi sẽ vào vai tương ứng, dạo gần đây thì báo chí truyền thông hay gọi tôi là nhà nghiên cứu, nghe cũng chung chung chăng? Thôi thì cứ gọi nhà văn, họa sĩ.
Gần đây người ta còn gọi anh là nhà Hà Nội học nữa?
- Hà Nội học là thuật ngữ rắc rối đó nhé. Một khi đã gọi như vậy thì phải xét nó như một ngành khoa học thật sự, phải có những sản phẩm được thực hiện bằng một phương pháp và lý thuyết nào đó mang tính đa ngành. Tôi không dám nhận danh xưng này.
Nhưng nếu tìm một ai đó tâm huyết, có nhiều nghiên cứu nghiêm túc và bền bỉ về Hà Nội thì không thể không nhớ tới anh?
- Chắc chắn tôi chỉ là một trong số nhiều người làm công việc viết về Hà Nội thôi. Nhưng có một thực tế là Hà Nội đang ngày càng biến dạng, những khảo cứu hay đóng góp từ khía cạnh chữ nghĩa càng ngày càng có vẻ lạc thời và xa rời dòng chảy thời thượng, nên người nghiên cứu về Hà Nội sinh ra một mặc cảm là mình nói về những thứ đã và sẽ mất, điều đó gợi cảm giác khá tuyệt vọng.
Vậy anh có đang tuyệt vọng như người ta nói?
- Có lẽ mình cố gắng qua được trạng thái ấy, nghĩa là đã từng rơi vào cảm giác đó vì chắc chắn phải chấp nhận dòng chảy biến đổi. Nói đúng hơn là tuyệt vọng với khả năng viết và rút ra vấn đề của mình - nó không khắc họa được hiện thực hay không theo kịp sự biến chuyển, đó là cái kém của mình và mình thất vọng về điều đó hơn là về Hà Nội. Tất nhiên mình rất muốn Hà Nội giữ được sự hài hòa trong chừng mực.
Trong quan sát của anh, Hà Nội đã biến chuyển khác xưa như thế nào khiến ngòi bút nhà văn không thể “đuổi kịp”?
- Chỉ so với năm 2.000 thôi chẳng hạn. Lúc đó tính hiện đại của Hà Nội không cao, không gian cộng đồng mang tính gần gũi kiểu trên cùng một mặt nền (như kiểu đều là ở tầng 1-2 theo hình dung về nơi sống). Còn giờ so sánh với không gian sống mới, cộng đồng xé lẻ và dàn trải trên nhiều cấp, nhiều tầng, nhiều phân khu tách biệt hơn. Cộng đồng giao thoa nhau ở các trung tâm thương mại, các điểm tụ họp mang tính lễ lạt giải trí,...
Xưa kia một phường có 2 vạn dân, hầu như đồng nhất về kiểu nơi ở, thành phần cư dân cũng khá cơ bản như nhau. Ví dụ phường ở phố cổ thì hay buôn bán, nhà 1-2 tầng kiểu cổ hay lai Tây. Phường ở khu tập thể thì toàn cán bộ công nhân viên chức, nhà ở đều chằn chặn, cách sống từa tựa nhau. Phường ở vùng ven lại toàn nhà ngõ ngách, dân thợ thủ công...
Giờ thì một phường như Vĩnh Tuy chẳng hạn, có cả nhà ngõ ngách, khu phố chợ, khu tập thể cũ lẫn khu đô thị mới như Times City. Nguyên khu chung cư Times City đã to bằng 1-2 cái phường bình thường rồi! Tức là giờ Hà Nội không còn dễ nhận diện đồng nhất như một khối đặc thù như trước.
Được biết anh còn tham gia giảng dạy ở một số trường đại học nữa. Anh sẽ viết lúc nào?
- Giảng dạy là một cách mình tìm kiếm sự kết nối với thế hệ trẻ, và mình chuốt sắc các vùng kiến thức và kinh nghiệm của mình, phục vụ cho việc viết.
Công việc dạy phải đầu tư rất nhiều thời gian, công sức nhưng mình có được cảm giác về dòng chảy đời sống, kết nối nhanh nhất với thời cuộc qua góc độ giới trẻ. Mình bớt ảo tưởng về vị thế của sách vở, văn chương, nghệ thuật... Mình sẽ thấy thế hệ mới giờ quan tâm cái gì, vì sao các em lại không biết cái này không thích cái kia...
Nghĩa là giới trẻ ngày nay không còn mặn mà với sách vở, văn chương?
- Không hẳn. Chỉ là mình không ảo tưởng về việc mình đang vận hành thông tin chủ lưu trong dòng kiến thức. Ví dụ nhé, trước đây mình cho rằng đi học văn nghiễm nhiên biết bài thơ như “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến hay biết Tiên Điền là quê hương Nguyễn Du, giờ đối diện sự thật rằng, các bạn trẻ không biết và cũng không có động lực quan tâm, thì mình phải nghĩ xem có thể thay đổi được điều đó hay không?
Vậy đứng giữa dòng chảy hiện thực đó, theo anh, nhà văn có sứ mệnh gì với độc giả trẻ, nhất là thế hệ Z?
- Sứ mệnh nghe to tát quá, mình ở vai ông thầy thì mình cố gắng như một người bạn tha thiết truyền đạt thôi.
Bên cạnh việc mình vẫn viết về những điều mình cho là thú vị đó, thì mình phải truyền được cảm hứng cho các bạn rằng cứ tìm hiểu và học lại đi, có những thứ sẽ vui hơn nếu biết. Sẽ thấy cuộc sống có nhiều màu sắc hơn là giới hạn trong vùng an toàn của tiện nghi, cung cấp cho khả năng kết nối với xung quanh nếu như trải nghiệm mở rộng, hướng dẫn họ khai phá những vẻ đẹp họ chưa có cơ hội nhận ra thôi.
Viết liên tục về Hà Nội, anh làm sao để mài giũa ngòi bút và ý tưởng?
- Thật ra tôi có một sự biến chuyển nhất định vài năm gần đây. Hồi năm 2015-2016, sau khi cũng in độ 8-9 cuốn sách, tôi thấy khá bí khi triển khai các đề tài lớn. Nếu cứ lại những quyển tản văn mong mỏng, các chủ đề cũng sẽ đến lúc dẫm lại vào vết chân cũ.
Đúng lúc ấy mình đi học cao học, chương trình của một trường bên Anh quốc mở ở Hà Nội, chuyên về Khoa học Quản lý truyền thông. Thật tình thì cũng nhiều môn không liên quan đến nghề tôi làm lúc đó (biên tập viên) như kiểu Marketing, kỹ thuật PR hay quản trị tổ chức... nhưng có những môn thật sự mình rất thích học. Học rồi mới hiểu ra phương pháp nghiên cứu, muốn viết một nghiên cứu dài hơi để khai thác kiến thức ra sao. Các lý thuyết về truyền thông, xã hội học... cho mình nhiều góc nhìn. Từ đó việc viết của mình sáng rõ hơn.
Nghe anh chia sẻ thì nghề viết không thể chỉ cần có cảm hứng là xong. Phải nghiên cứu và có phương pháp hệt như một môn khoa học?
- Cảm hứng không phải vốn làm nghề lâu bền. Nhưng nói chung có cảm hứng thì mới đủ nhiệt mà theo đuổi, chứ không có cũng không được. Đầy người cũng lập chương trình viết đấy, nhưng sản phẩm nó không có cái quyến rũ của phiêu lưu. Mình phải cân bằng hai trạng thái đó. Viết là mình phải tự cảm thấy cảm xúc, và hình dung được trạng thái ấy sẽ tái tạo ở người đọc ra sao. Sẽ vô cùng khó để người ta hiểu, người ta thích nếu chính mình cũng không tường minh chính mình.
Sự quyến rũ của văn Trương Quý có vẻ thâm trầm, mang sắc màu Hà Nội xưa nhiều hơn?
- Tôi không rõ. Nói chung tôi thì cứ thấy cái gì nó thú vị thì mình khai thác thôi.
Xã hội mình đang bị hội chứng lột xác, nó đúng kiểu bị công nghệ và đầu cơ ảnh hưởng. Ít ai muốn bỏ công sức ra làm cái gì quá lâu, chỉ muốn đầu tư cái gì nhanh nhanh thu hoạch. Văn hóa đâm ra là thứ bị tụt lại, vì vừa bé hạt gạo vừa lâu đồng tiền.
Nói vậy thì có vẻ những tác phẩm nghiên cứu văn hóa thường mang hơi hướng xưa?
- Nhận xét hơi hướng xưa là một cách nhìn phiến diện, vì thật sự mọi vấn đề quá khứ đều đang hiện diện trong hiện tại. Chúng ta đang gặp những vấn đề gì đều có gốc rễ từ cái xưa đó. Nó là di sản, là hậu quả, hay là thành tựu - tùy góc nhìn.
Anh có thể lấy ví dụ cụ thể?
- Như rất nhiều đình chùa ở các làng quê, mỗi lần tôi đi thăm là thấy lọt thỏm giữa những nhà dân cao tầng không hề ăn nhập. Bên Hàn Quốc tôi thấy họ hiện đại vậy mà vẫn giữ hoặc phục dựng các kiến trúc truyền thống nhỏ bé, các công trình tôn giáo họ thường tìm cách hòa đồng hoặc lùi ra xa các cái lõi di sản, tôi không thấy bên ấy có cái chùa bê tông vàng chóe đỏ lựng mới toe nào cả...
Sự thay đổi ở các di sản quả thực rất đáng bức xúc. Chúng ta có thể thấy cái đẹp của sự khiêm cung, giản dị, cái thô mộc của một thời đại để lại.
Điều này tôi cũng đã lên tiếng ở nhiều bài rồi, nhiều người khác cũng lên tiếng. Từ hồi những năm 90 tôi học kiến trúc đến nay, năm nào cũng có vô số đồ án và dự thảo quy hoạch bảo tồn. Từ lúc phố cổ hãy cò nhiều nhà cổ, từ lúc các công trình hãy còn khá nguyên vẹn, nhưng vẫn không cản được sự biến dạng...
Giả sử không viết về Hà Nội mà viết về miền đất khác, anh có loay hoay không?
- Chúng ta có phương pháp và sự quan sát giúp cho việc viết mà, quan trọng là trải nghiệm và sự xâm nhập của mình vào bối cảnh ấy.
Tôi cũng có những quan tâm đến những vùng đất khác, như Sơn Tây, các tỉnh truyền thống Bắc Bộ, hay Sài Gòn chẳng hạn. Nhưng Hà Nội thuận lợi hơn vì mình sinh ra lớn lên và sinh sống ở đấy, thêm nữa nó là vùng đất đặc thù tập trung quá nhiều vấn đề, nên so sánh với nơi khác không công bằng được.
Cuốn sắp ra mắt độc giả ở NXB Trẻ trong tháng 10 này tên là “Thời thanh xuân của tân nhạc ái quốc”, không gian đề cập đã mở rộng ra rất nhiều.
Nó khảo cứu Ban âm nhạc Tổng hội sinh viên Đại học Đông Dương hoạt động ở Hà Nội và cả Sài Gòn, thành viên của ban ấy vốn là những sinh viên Nam Kỳ ra Hà Nội học năm 1940-1945.
- Vâng, nhiều bạn đọc đang rất nóng lòng chờ đón những trang viết mới của anh để khám phá thêm về Hà Nội và thời cuộc. Xin cảm ơn anh!
Bài: Việt Đan
Thiết kế: Thúy Hà