Giữa núi rừng hoang vu ở ngoại ô Hà Nội, ở nơi tưởng chừng chỉ có bóng dáng của nỗi đau và sự cô lập, lại có những mảnh đời lặng lẽ vươn lên. Ở đó, tình yêu đã nảy nở, không lộng lẫy, ồn ào, mà đầy ấm áp và vững chãi như chính những con người đã vượt qua định kiến, bệnh tật để tìm đến nhau.
Khoa điều trị bệnh phong của Bệnh viện Da liễu Trung ương cơ sở ba nằm lọt thỏm giữa núi rừng thị trấn Xuân Mai, Quốc Oai, Hà Nội. Muốn đến được nơi này, chúng tôi phải men theo những con ngõ nhỏ lắt léo phía sau nhà dân, băng qua một đoạn rừng và một ao nước nhỏ. Địa điểm gần như biệt lập với thế giới bên ngoài, ẩn sâu sau màu xanh thăm thẳm của cây cối.
Từ xa nhìn lại, khu điều trị phong mang dáng vẻ tĩnh mịch và già cỗi. Những dãy nhà cấp bốn đã cũ, tường loang lổ rêu phong, lớp sơn bong tróc, mái ngói bạc màu. Một vài nơi thậm chí đã xuống cấp, nền gạch lát xiêu vẹo. Nhưng trong sự hoang sơ ấy, có một thứ bình yên rất lạ, thứ bình yên của một “xóm nhỏ” với những con người từng bị xã hội lãng quên, nay nương tựa vào nhau để sống tiếp cuộc đời.
![]() |
Những gian nhà đã xuống cấp |
Bước vào bên trong, chúng tôi gặp một nhóm các ông bà cụ đang ngồi nghỉ trên những chiếc ghế đá cũ sờn rêu dưới gốc cây đa lớn. Ông Đỗ Danh Công bước tới, tiếp đón chúng tôi nồng nhiệt. Được các cụ trong khoa yêu thương gọi là “anh nuôi” của khoa, ông Danh Công trở thành người đại diện cho các bệnh nhân tiếp đón các đoàn từ thiện. Thoạt nhìn, dáng người ông Công gầy nhỏ, làn da rám nắng, mái tóc đen nay đã bạc màu thời gian, tay và chân đều đã bị ăn cụt vì bệnh phong, ông di chuyển có phần chậm chạp. Nhưng điều đó không làm giảm đi sự nhiệt tình và ấm áp trong giọng nói của người "anh nuôi".
![]() |
![]() |
Ông Đỗ Danh Công - “anh nuôi” khoa điều trị bệnh phong |
Là dân gốc Quốc Oai, ông Công vào khoa điều trị từ năm 1969, khi còn mới là một chàng thanh niên 20 tuổi đầy nhiệt huyết. Thời điểm phát hiện bản thân mắc bệnh phong, ông Công mới chỉ tám tuổi và đang còn đi học. Dấu hiệu đầu tiên là những cơn rát ở hai bên má, lúc bấy giờ ông chỉ nghĩ đơn giản mình bị bệnh hắc lào. Nhưng càng về sau các cơn rát ngứa càng lan nhanh xuống tai, mặt, chân tay và dần ăn mòn cơ thể. Ở cái thời bao cấp, lạc hậu, khi người ta chưa có nhiều kiến thức và phương pháp chữa bệnh, người ta coi ông là “con hủi”. Nhớ lại thời điểm đó, ông Công ngậm ngùi: “Bước ra đường cũng không dám, đi đến đâu là bị xa lánh, kỳ thị”.
Thời gian đầu phát hiện bệnh, gia đình và ông lựa chọn trốn ở nhà, mua thuốc tự chữa trị. Lúc đi học, bạn bè thấy có những vết đỏ lan rộng trên mặt và tai ông, đã mách lại với cô giáo. Kể từ thời điểm bị phát hiện, ông Công bị mọi người xa lánh và ruồng bỏ, cuộc sống ông thay đổi hoàn toàn. Nhận thức được bản thân bị bạn bè cô lập, ông Công nghỉ học từ năm lớp bốn. Khẽ xoa bàn chân đã bị bệnh phong “ăn cụt”, ông Công chậm rãi kể về quãng đời đằng đẵng sống trong sự kỳ thị suốt 48 năm: “Có những người họ kỳ thị mình, đó là cá tính, quan điểm cá nhân của họ, mình không thể thay đổi được ở thời điểm đó. Kể cả khi đi học, bố mẹ bạn cùng lớp còn bảo phải tránh xa cái thằng đấy ra…”, ông Công ngậm ngùi nhớ lại.
![]() |
Đến năm 1969, ông Công được giới thiệu và biết đến trại phong Xuân Mai (nay là Khoa điều trị phong cơ sở ba), ông lên đây ăn ở và sinh hoạt cùng nhiều bệnh nhân khác. Dù lúc đó rất nhiều người, nhưng tuyệt nhiên không một ai dám ra ngoài, vì chỉ cần đi ra thì bị người ta xa lánh. “Mình ở đầu đường, thì họ phải lánh tận ở cuối đường…” ông Công nhớ lại những ngày đầu.
![]() |
Ông Công cho chúng tôi xem những di chứng của căn bệnh từng được coi là “tứ chứng nan y” một thời. Đó đôi bàn tay gầy gò nổi những đường gân với những ngón tay cụt lủn do bị ăn mòn, đôi bàn chân không còn lành lặn cả bàn, mà nay chỉ còn một mẩu chân còn sót lại - không đủ để giữ cơ thể đứng vững.
Từ cảm giác rát, đến đau, đến mất đi cảm giác ở các bộ phận cơ thể... là những gì ông Công không thể nào quên trên hành trình chiến đấu chống lại căn bệnh.
Kỳ thị, cô lập, cơ thể tàn tật, sống lay lắt đơn độc… tưởng chừng như đã quật ngã một phận người, nhưng tia sáng đã đến với cuộc đời ông Công khi bà Lan xuất hiện, mở ra một ngã rẽ mới trong cuộc đời.
Cùng hoàn cảnh với ông Công, bà Lan, đến từ Phú Xuyên, được phát hiện mắc bệnh phong khi 18 tuổi - cái tuổi phải được học nhiều hơn, ngắm nhìn thế gian rộng lớn hơn. Bà kể rằng, lúc đó cả làng đều thương tiếc cho số phận hẩm hiu của bà. “Nhìn các cháu bây giờ, tôi cũng nghĩ giá như ngày đó tôi không bị bệnh, tôi đã có thể đi học, đi làm, sống một cuộc đời như người bình thường, không phải chịu sự kỳ thị, xa lánh”, bà Lan rơm rớm nước mắt. Trước lúc bệnh, bà Lan chia sẻ được nhiều bạn bè yêu quý lắm, đi chơi nhiều, mà từ lúc bệnh đến nay, không còn ai tìm đến bà nữa.
![]() |
![]() |
Kể về chuyện tình đặc biệt của mình, ông Công và bà Lan đều có đôi phần ngại ngùng và xúc động, được chúng tôi khích lệ động viên, ông bà mới bày tỏ. Ông vào trại lúc 20 tuổi, làm “anh nuôi” của khoa bệnh, một mình xoay xở nấu hơn 200 suất cơm mỗi ngày cho bệnh nhân. Bà lúc ấy mới tròn 19 tuổi, làm công việc hộ lý, ngày ngày bưng từng thau nước, đưa cơm, thay băng cho từng bệnh nhân nặng. Giữa cảnh bệnh tật bủa vây, bà ấn tượng về ông ngay từ lần đầu gặp mặt - một chàng trai trẻ gầy gò, bền bỉ nấu cơm với vẻ mặt chăm chú, điềm đạm.
Không có bó hoa tươi hay tiếng nhạc cưới, tình yêu của họ kết thành đôi năm 1979 - chỉ bằng một lời báo tin cho hai bên gia đình và một căn phòng chung được bệnh viện tạo điều kiện. Dẫu vậy, với họ, đó vẫn là một lễ thành hôn đầy đủ - chứng nhân là những người bạn cùng trại, và mái nhà chung là hành lang khoa bệnh, nơi bao số phận nương tựa nhau mà sống.
Một thời gian sau, chính Giám đốc bệnh viện lúc đó đã tổ chức cho ông bà một lễ thành đôi giản dị nhưng ấm lòng. Hạnh phúc như được gọi tên, khi họ đón con trai đầu lòng, một cậu bé kháu khỉnh, là kết tinh của tình yêu giữa những con người tưởng chừng bị số phận vùi dập. Thế nhưng, quy định trại lúc ấy không cho phép nuôi trẻ nhỏ trong khu điều trị phong. Đau xót, ông bà đành gửi con về quê cho người thân chăm giúp. Những đêm vắng con, hai vợ chồng chỉ biết quay lưng lại nhau mà nằm khóc. Tiếng trẻ thơ thiếu vắng trong căn phòng nhỏ, chỉ còn lại tiếng nấc nghẹn và những nỗi nhớ không lời, âm ỉ suốt tháng năm.
Về sau, mỗi năm gia đình ở quê vẫn gửi con tới thăm và chơi với ông bà trong trại khoảng hai lần trong năm. Dù không được chứng kiến tận mắt quá trình hình thành và trưởng thành của con, nhưng trong ánh mắt lấp lánh của hai ông bà, họ luôn tự hào luôn nhắc về người con trai nay đã trưởng thành, lập gia đình và có công việc ổn định.
![]() |
Tiến vào dãy nhà nơi ông bà sinh sống, chúng tôi cảm giác như những đứa trẻ được trở lại ngày thơ bé về thăm ông bà của mình. Dãy nhà bệnh viện được nhà nước cung cấp dù chỉ vỏn vẹn vài mét vuông, nhưng được ông bà trang trí rất ấm cúng và đầy đủ. Phía trước nhà là con ngõ lát gạch dẫn ra các dãy nhà khác, đằng xa có một khoảng sân nhỏ bé được ông bà tận dụng trồng nhiều cây cối như cây đinh lăng, cây bằng lăng, cây vải, cây chanh, cây mít…
Bên trong căn nhà nhỏ có hai chiếc giường được xếp ở hai góc phòng, ở giữa có một bộ bàn ghế gỗ để tiếp khách, một bộ ấm chén nhỏ sứ được xếp ngăn nắp gọn gàng. Phía trên có bộ bàn thờ và đồng hồ. Giống như mái ấm của bao người già khác, tường phòng ông bà có treo vô số những bức ảnh, bao gồm ảnh những đoàn từ thiện đến giao lưu, ảnh gia đình bên ngoài trại, ảnh con cháu ông bà… Dù không được ở gần gia đình nhiều, nhưng trái tim họ đâu đó vẫn luôn đau đáu nhớ về những người thân ruột thịt của mình.
![]() |
Chia sẻ về sinh hoạt của hai người, mỗi tháng, hai ông bà được nhà nước cấp 500.000đ/người, 15kg gạo và hai bộ quần áo. Dù vậy nhưng khi trừ đi phí và các hóa đơn đỏ, ông bà chia sẻ với chúng tôi rằng cả hai chỉ còn 13.000đ/ngày. Hằng ngày, hai ông bà tự túc cắm cơm, mỗi người được sáu miếng thịt, chia ra ba bữa. Dẫu ít ỏi là vậy, nhưng hai ông bà vẫn luôn lạc quan, tìm thêm thú vui chăm vườn, học cách đạp xe, vận động thể dục để vui khỏe qua ngày.
Câu chuyện tình yêu nơi trại phong không chỉ của riêng ông Công và bà Lan. Ở nơi này, cũng có một cặp vợ chồng khác là ông Thập và bà Tại, cũng nên duyên trong chính khu điều trị phong này. Như bao bệnh nhân khác, họ đến trại trong tâm thế buông xuôi, nhưng lại tìm được sự đồng cảm nơi nhau và cùng gây dựng nên một mái ấm bền chặt. Điều khiến người ta xúc động hơn cả, chính là đứa con gái của ông bà – cô giáo dạy ngoại ngữ tại một trường cấp ba ở Hà Nội. Mỗi lần nhắc đến con, ánh mắt ông bà rạng rỡ hẳn lên, đầy tự hào: “Nó học giỏi, thương bố mẹ lắm, từ bé đã biết nỗ lực để vượt qua số phận.”
Dẫu mang tiếng là “con của bệnh nhân phong”, nhưng cô bé ngày ấy đã lớn lên mạnh mẽ, chứng minh cho cả thế giới thấy rằng: tình yêu và nghị lực có thể chiến thắng mọi rào cản của định kiến.
Chúng tôi chào tạm biệt ông Công, bà Lan và những người bệnh nhân tại khoa phong trong sự lưu luyến. Bước chân rời khỏi con dốc dẫn ra ngoài, lòng đầy những suy tư. Ở nơi tưởng như quạnh quẽ và buồn bã, chúng tôi được chứng kiến những bản tình ca đẹp, những câu chuyện tình vượt lên trên bệnh tật, đói nghèo và kỳ thị.
Chuyến đi kết thúc, nhưng dư âm vẫn đọng lại rất lâu sau đó. Về tình yêu, về nghị lực và trên hết là về niềm hy vọng, thứ ánh sáng vẫn cháy âm ỉ nơi những trái tim lành trong những thân thể nhiều tổn thương.
Thực hiện: Minh Phương, Trang Oanh, Ánh Dương