Nhận diện rào cản, đẩy mạnh kiểm kê
Theo số liệu kiểm kê của Bộ Xây dựng, tổng phát thải khí nhà kính đối với sản xuất vật liệu xây dựng năm 2014 là 59,91 triệu tấn CO2 tương đương và năm 2022 là 101,89 triệu tấn CO2 tương đương. Trong đó phát thải lớn nhất là sản xuất xi măng, với năm 2014 là phát thải 47,64 triệu tấn CO2 tương đương và năm 2022 là 91,93 triệu tấn CO2 tương đương; sản xuất gạch xây nung năm 2014 phát thải 5,73 triệu tấn CO2 tương đương và năm 2022 là 4,22 triệu tấn CO2 tương đương; còn sản xuất vôi công nghiệp năm 2014 phát thải 4,1 triệu tấn CO2 tương đương và năm 2022 là 2,9 triệu tấn CO2 tương đương.
Trong ngành xây dựng, hai nhóm đối tượng phát sinh khí nhà kính lớn nhất là sản xuất vật liệu xây dựng và phát thải trong các toà nhà. Để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng "0", bên cạnh các nhóm giải pháp kỹ thuật cụ thể được đưa ra, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng đã quy định rõ về vai trò, trách nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp phải tham gia thực hiện giảm phát thải khí nhà kính theo lộ trình.
Các quy định về kiểm kê phát thải khí nhà kính phải thực hiện từ năm 2023. Bên cạnh đó, các cơ chế hỗ trợ thực hiện nghĩa vụ giảm phát thải thông qua sàn giao dịch tín chỉ carbon, cơ chế bù trừ tín chỉ carbon... sẽ được áp dụng thử nghiệm từ năm 2025, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp đạt được mục tiêu giảm phát, chuyển đổi xanh, hướng đến nền sản xuất bền vững của mình.
Ngành xây dựng hướng tới chuyển đổi xanh từ lộ trình kiểm kê khí nhà kính. |
Để thực hiện nghĩa vụ giảm 74,3 triệu tấn CO2 tương đương, dự kiến trong năm 2024, Bộ Xây dựng sẽ ban hành Kế hoạch thực hiện giảm phát thải khí nhà kính lĩnh vực quản lý của ngành xây dựng.
Theo rà soát của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong năm 2023 hoặc chậm nhất đầu năm 2024, Bộ này sẽ trình Chính phủ bản cập nhật Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg, trong đó đã bổ sung một số cơ sở sản xuất gạch, kính xây dựng vào danh mục các cơ sở phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, văn bản dự kiến ban hành đầu năm 2024.
“Để giảm phát thải khí nhà kính trong ngành công nghiệp SXVLXD nói riêng, ngành công nghiệp nói chung thì cần có các giải pháp ứng dụng KHCN, chuyển đổi mô hình sản xuất để xanh hóa ngành công nghiệp sản xuất VLXD, xanh hóa ngành công nghiệp xây dựng góp phần xanh hóa nền kinh tế và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 như cam kết của Việt Nam” – ông Vũ Ngọc Anh Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và môi trường (Bộ Xây dựng) nhấn mạnh.
ông Vũ Ngọc Anh Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và môi trường. |
Lộ trình như vậy song theo các doanh nghiệp trong lĩnh vực vật liệu xây dựng, còn nhiều khó khăn, rào cản trong việc chuyển đổi xanh. “Việc áp dụng các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính thường tốn kém hơn so với các giải pháp truyền thống. Điều này có thể gây khó khăn cho các doanh nghiệp và người dân trong việc thực hiện. Một số giải pháp giảm phát thải khí nhà kính đòi hỏi phải áp dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại. Tuy nhiên, các công nghệ này vẫn còn chưa phổ biến ở Việt Nam (như công nghệ thu hồi và lưu trữ carbon)”, ông Lê Minh Toàn Phương, Giám đốc Phát triển kinh doanh Công ty cổ phần Sàn Giao dịch Tín chỉ Carbon ASEAN (CCTPA) cho biết.
TS.LS Phạm Hồng Điệp, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Shinec cũng cho rằng đối với tầm nhìn xanh cho các doanh nghiệp qua cách nhìn tổng quan hoạt động điển hình của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tại Việt Nam, chuyển đổi xanh không chỉ mạnh mẽ trong phạm vi từng doanh nghiệp mà có thể được huy động nhiều nguồn lực cùng thực hiện, cùng chia sẻ để nhanh chóng đạt được thoả thuận xanh trên phạm vi rộng hơn của các khu, cụm công nghiệp.
“Chuyển đổi xanh trong nội hàm doanh nghiệp đặc biệt quan trọng khi hướng đến những yêu cầu của khách hàng lớn trong thời kỳ hội nhập, sự quan tâm và đòi hỏi về những quyền lợi trong môi trường đầu tư, và các sản phẩm thân thiện môi trường được ưa chuộng, là yêu cầu khắt khe trong trách nhiệm kinh doanh hiện nay. Đây là động lực để doanh nghiệp đảm bảo an ninh kinh tế, an ninh tài nguyên, an ninh năng lượng và thực hiện tầm nhìn xanh”, Ông Điệp phân tích.
Cần thực hiện đồng thời các nhóm giải pháp
Về mặt giải pháp, theo Ths. Kiều Văn Mát, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Sông Đà Cao Cường, thời gian qua, doanh nghiệp này đã ứng dụng nhiều công nghệ mới trong lĩnh vực xử lý các chất thải rắn của các nhà máy nhiệt điện, phân bón hóa chất; nghiên cứu ứng dụng sản xuất các vật liệu xây dựng mới, vật liệu xây dựng xanh thân thiện với môi trường.
Điển hình như các dự án: khai thác, xử lý bã thải phosphogypsum của nhà máy phân bón hóa chất DAP VINACHEM (Hải Phòng), xử lý tro xỉ phát thải cho Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại (Hải Dương), Nhiệt điện Uông Bí, Nhiệt điện Mông Dương, Nhiệt điện Hà Khánh (Quảng Ninh), Nhiệt điện Hải Phòng (Hải Phòng), trung tâm nhiệt điện Vĩnh Tân (Bình Thuận).
Theo đó, các sản phẩm sau xử lý cùng với các vật liệu sẵn có tại địa phương đã được doanh nghiệp đưa vào sản xuất tạo ra các sản phẩm vật liệu xây dựng có chất lượng với giá thành cạnh tranh, phục vụ cho ngành xây dựng trong nước và xuất khẩu. Sản phẩm thành phẩm gồm: tro bay chất lượng cao, cấu kiện bê tông, vữa khô trộn sẵn, keo, bột bả, bê tông bền Sunphat phục vụ thi công kè biển, hải đảo...
Hội thảo thu hút sự quan tâm của đông đảo các chuyên gia, doanh nghiệp và các cơ quan truyền thông. |
Chia sẻ tại hội thảo, theo đại diện Eurowindow, việc sử dụng các loại vật liệu xây dựng xanh trong các công trình xây dựng có thể tiết giảm đến 50% khí thải nhà kính, do đó, doanh nghiệp đề xuất Chính phủ cần tiếp tục ban hành, rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách ưu đãi cho các công trình sử dụng vật liệu xây dựng xanh. Cùng với đó là việc đưa ra các chế tài xử lý các trường hợp vi phạm việc thực hiện các chủ trương, cơ chế, chính sách đã ban hành; đẩy mạnh truyền thông nhằm nâng cao nhận thức cho cộng đồng để thay đổi thói quen trong việc sử dụng vật liệu xây dựng.
Với doanh nghiệp, Eurowindow ưu tiên sử dụng các loại vật liệu có thể tái chế, vật liệu an toàn, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực tới môi trường như: thanh profile uPVC đạt tiêu chuẩn “Greenline” không chứa chì, cửa nhôm có cầu cách nhiệt ứng dụng gioăng Santoprene chất lượng cao có khả năng tái chế, cửa gỗ sử dụng nguyên liệu gỗ rừng trồng đạt chứng nhận FSC.
Đại diện Viglacera cho biết DN này đã thực hiện 3 cuộc cải cách lớn về mặt sản phẩm. Đầu tiên là giải pháp nhà kính phơi gạch và lò nung tuynel một kênh liên hợp (tận dụng nhiệt thải từ lò nung để sấy sản phẩm mộc). Tiếp theo là đổi mới và liên tục hoàn thiện nâng cao về công nghệ sản xuất và công nghệ sấy nung, rải liệu với các sản phẩm sứ vệ sinh, gạch ốp lát, kính xây dựng. Hiện nay, Viglacera đang triển khai “cuộc cách mạng công nghệ lần thứ ba” - áp dụng sản xuất xanh làm trục cốt lõi. Áp dụng cho các sản phẩm: bê tông khí chưng áp, tấm panel kích thước lớn ALC, kính LowE tiết kiệm năng lượng, dây chuyền đá tấm lớn Vasta Stone và sản phẩm kính siêu trong.
Các nhà máy quan tâm tới lộ trình giảm phát thải. |
Khẳng định tạo không gian phát triển mới cho Việt Nam, theo hướng chuyển đổi xanh là tất yếu, TS. Trần Đình Thiên, Thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng cho rằng, Việt Nam cần thực hiện đồng thời các nhóm giải pháp như: Đẩy mạnh kiến tạo thể chế, chính sách cho tăng trưởng xanh đến năm 2030 định hướng đến năm 2050 ở Việt Nam; Xây dựng chính sách, công cụ về huy động nguồn vốn cho phát triển nhanh và bền vững; Hoàn thiện khung khổ pháp lý cho trái phiếu xanh và bảo hiểm xanh; Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho tín dụng xanh và ngân hàng xanh. Và cuối cùng là nâng cao khả năng tiếp cận tài chính xanh.
“Giai đoạn 1990-2014, vốn tài nguyên chiếm khoảng một phần ba tổng tài sản của Việt Nam, so với 10% ở khu vực Đông Á và 17% ở các quốc gia thu nhập trung bình cao. Việt Nam cần chuyển từ mô hình phát triển dựa vào khai thác và xuất khẩu tài nguyên thô sang mô hình phát triển có thể quản lý vốn tài nguyên bền vững hơn. Việt Nam phải vượt qua nền kinh tế thâm dụng tài nguyên, dựa nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên để tăng trưởng kinh tế. Chúng ta đặt mục tiêu tham vọng trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Tuy nhiên, để đạt được vị thế đó, Việt Nam cần có tốc độ tăng trưởng bình quân vượt trội giai đoạn 1990 – 2020 và tăng trưởng xanh là giải pháp hiệu quả”, ông Thiên nhấn mạnh.