Chiến tranh đã lùi xa, những gì của hôm nay không chỉ là nền hòa bình, thống nhất khắp hai miền Nam - Bắc mà còn bao tiếc thương, trăn trở chưa nguôi trong lòng cựu chiến binh năm xưa.
__________________
Nửa thế kỷ đã trôi qua, ký ức về ngày 30/4/1975 vẫn vẹn nguyên trong tâm trí những người từng chứng kiến thời khắc lịch sử ấy. Ngày mà đoàn xe tăng của Quân Giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập, kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài hơn hai thập kỷ, thống nhất đất nước Việt Nam. Với cựu chiến binh Trần Bình Yên, người cầm lái chiếc xe tăng 846 tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30/4, những hồi ức ấy không chỉ là một phần của lịch sử hào hùng, mà còn là những năm tháng tuổi trẻ hết lòng cống hiến cùng đồng đội vì lý tưởng cao đẹp và khát vọng hoà bình.
Tiến công vào Dinh Độc Lập
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, người lính Trần Bình Yên tham gia chiến đấu tại Đại đội 5, Tiểu đoàn 2 (Lữ đoàn tăng thiết giáp 203, Quân đoàn 2). “Những ngày cuối cùng của chiến dịch, đơn vị chúng tôi được giao nhiệm vụ hành quân đặc biệt bí mật, trong đó xe tăng mang số hiệu 846 do tôi cầm lái nằm trong đội hình lực lượng thọc sâu, đánh trực diện tiến vào Sài Gòn. Quá trình hành quân chủ yếu diễn ra vào ban đêm, tập trung chiến đấu đập tan tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch từ xa”, ông Yên nhớ lại.
Ngày 26/4/1975, khi Chiến dịch Hồ Chí Minh bước vào giai đoạn quyết định, mũi đột kích thọc sâu gồm bảy xe tăng và một xe thiết giáp đánh thẳng vào căn cứ Nước Trong, Long Thành (thuộc tỉnh Đồng Nai hiện nay) - đây là tuyến phòng thủ vòng ngoài đầu tiên của địch, nhằm mở đường cho đoàn quân của ta tiến vào Sài Gòn. Tuy nhiên, trận đánh tại căn cứ Nước Trong gặp nhiều khó khăn do quân địch bố trí phòng thủ dày đặc, coi đây là pháo đài tử thủ, trong khi lực lượng ta tương đối mỏng.
![]() |
| Cựu chiến binh Trần Bình Yên, người lái xe tăng 846 tiến vào Dinh Độc Lập trong ngày 30/4/1975. |
“Ban đầu, Đại đội 5 có tổng cộng tám xe tham gia chiến đấu, nhưng chỉ sau một ngày đánh đã chịu thiệt hại rất nặng nề khi bị địch bắn hỏng hai chiếc xe tăng và một xe thiết giáp, cháy mất hai chiếc xe tăng khác, chỉ còn ba chiếc xe tăng là 846, 844 và 917 có thể tiếp tục hành quân. Đến chiều 27/4, lực lượng của chúng tôi được điều động bổ sung xe tăng 380 tiếp ứng, nhưng cũng chỉ sau một ngày đánh chiếc xe bị trúng đạn khiến trưởng xe bị thương và một pháo thủ phải hy sinh. Trước tình hình đó, Lữ đoàn 203 đã điều tiếp bốn xe thuộc lực lượng dự phòng của Đại đội 4, Tiểu đoàn 1 để phối hợp cùng đơn vị chúng tôi. Đến trưa 29/4, sau bao nỗ lực và hy sinh, căn cứ Nước Trong cuối cùng đã được giải phóng”, ông Yên kể lại.
Sau trận Nước Trong, một lực lượng thọc sâu mới được thành lập, với sự chỉ huy của Đại đội trưởng Bùi Quang Thận, Đại đội phó Nguyễn Quang Hòa và Chính trị viên Vũ Đăng Toàn. Mũi kích được củng cố với lực lượng bộ binh tham gia hiệp đồng tác chiến, tiến công theo trục đường 15, vừa tiến vừa đánh địch.
![]() |
Hành trình tiến vào Sài Gòn của quân đội ta gặp phải rất nhiều những trận đánh ác liệt. Đêm 29/4, đoàn quân đến cầu Sông Buông, nơi địch đang tìm cách đánh sập bằng mìn nhằm chặn đội hình tiến công của ta. Phải đến mờ sáng, khi công binh khắc phục xong, các xe tăng mới có thể tiếp tục hành quân, vượt ngã ba cầu Long Bình trên xa lộ 1. Tại đây, mũi trinh sát đi đầu đã bắn cháy một xe tăng M41 và một xe bọc thép M113 của địch.
Theo trí nhớ của cựu chiến binh Trần Bình Yên, sau khi vượt qua được chốt chặn tại ngã ba Thủ Đức, đến cầu Sài Gòn, Đại đội tiếp tục bị xe tăng, tàu chiến, máy bay của địch liên tục nã đạn tấn công. “Một xe tăng bị đạn bắn trúng xích, một xe bị bắn cháy, hai xe phía sau lùi lại tránh đạn thì bị sa lầy, xe tăng 846 do tôi lái rất may đã kịp thời tránh qua một bên và sau đó bắn hạ được một chiếc xe tăng địch. Tình hình lúc đó rất may lực lượng cao xạ đã kịp thời nổ súng yểm trợ, ép máy bay địch vọt lên cao để giải vòng vây cho mũi thọc sâu”, ông Yên cho biết. “Quân địch rút về phòng thủ tại cầu Thị Nghè, tiếp tục nã đạn vào lực lượng của ta khiến một trinh sát hy sinh. Chúng tôi phải bắn cháy hai xe tăng địch nữa mới mở được đường tiến vào Dinh Độc Lập”.
![]() |
| Xe tăng 846 tiến qua cổng Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975. |
Sáng 30/4/1975, xe tăng số hiệu 843 do Trung uý Bùi Quang Thận làm trưởng xe dẫn đầu, truy kích quân địch tháo chạy, dẫn đầu đội hình tiến thẳng vào Dinh Độc Lập. Đến cổng Dinh, xe 843 húc vào cổng phụ bên phải, bị mắc kẹt dừng lại. Trung uý Thận lập tức rời xe, chạy lên nóc Dinh cắm cờ giải phóng. Cùng lúc đó, xe tăng 390 lao đến húc đổ cổng chính, theo sau là các xe còn lại, trong đó có xe tăng 846 do ông Trần Bình Yên lái, tiến vào sân Dinh lúc 11 giờ 30 phút, đánh dấu thời khắc Sài Gòn hoàn toàn giải phóng.
Khắc khoải tìm lại đồng đội cũ
“Ngay tại khoảnh khắc ấy trong tôi thực sự không có quá nhiều cảm xúc, bởi tôi chỉ nghĩ mình đang làm nhiệm vụ, ở tại xe tăng sẵn sàng vị trí chiến đấu, chứ chưa nghĩ đến chiến thắng. Sau đó, Quân đoàn lập tức giao cho các thành viên xe tăng 846 chúng tôi nhiệm vụ trấn giữ bên ngoài cổng Dinh Độc Lập, ngăn các lực lượng khác tiếp cận khu vực”, cựu chiến binh Trần Bình Yên nhớ lại. “Mãi đến khi mọi công việc được ổn định, anh em tổ chức nấu cơm, tôi mới cảm nhận rõ rệt niềm hạnh phúc vỡ oà. Suốt nhiều ngày kéo dài từ 26 đến ngày 30/4, chúng tôi mới có được bữa cơm ấm cúng như vậy”.
Khi chiến tranh đã khép lại, được sống trong những tháng ngày bình yên của hòa bình, thống nhất, ông Yên mới cảm nhận được niềm xúc động sâu sắc. “Nhìn lại, tôi thấy tự hào, nhưng cũng rất đau lòng, xót xa. Tự hào vì chúng tôi đã chiến đấu hết mình trong những năm tháng gian khổ vì nhiệm vụ thiêng liêng của Tổ quốc. Thế nhưng, đau lòng vì quá nhiều đồng đội đã ngã xuống, quá nhiều người đã hy sinh, họ mãi mãi nằm lại chiến trường”, ông Yên ngậm ngùi chia sẻ.
![]() |
| Người dân chào đón Quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn ngày 30/4/1975. |
Năm thập kỷ đã đi qua, người cựu chiến binh lái xe tăng năm xưa vẫn mang trong lòng một nỗi trăn trở khôn nguôi: Tìm lại thông tin về hai người lính bộ binh đã cùng ông chiến đấu trên chiếc xe tăng số hiệu 846 năm xưa trong những ngày cuối cùng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Dù bằng nhiều hình thức liên lạc, nhiều phương tiện thông tin khác nhau, ông Trần Bình Yên vẫn mòn mỏi đi tìm lại những người đồng đội cũ của mình.
“Những người lính bộ binh ấy được điều động để hỗ trợ chúng tôi tác chiến trong quá trình tiến vào Sài Gòn. Mũi kích thọc sâu của chúng tôi tiến quân với tinh thần “thần tốc và quyết thắng”, chiến sự cấp bách khi đó khiến chúng tôi quên đi những giao tiếp đời thường nhất. Tôi chỉ nhớ có một người tên là Biên, nhưng không biết gì hơn, không tên, không tuổi, không quê quán…”, ông Yên nói trong sự day dứt. “Tôi đã tìm kiếm khắp nơi, hỏi han đồng đội, liên lạc với các đơn vị nhưng vẫn chưa có manh mối thông tin nào”.
![]() |
Những người lính năm xưa, chưa kịp biết tên, biết quê quán của nhau, vẫn sát cánh bên nhau trong những giờ phút sinh tử, họ gắn kết với nhau bởi ý chí sắt đá giành bằng được hòa bình, thống nhất cho Tổ quốc. “Nếu ngày ấy tôi hỏi tên, biết quê quán của họ, có lẽ giờ đã khác, chúng tôi đã có thể cùng vui trong những ngày tháng Tư ý nghĩa này”, ông Yên giãi bày. Nỗi trăn trở này không chỉ là của riêng ông, mà còn là của một thế hệ từng tham gia chiến đấu vì hòa bình, nơi những người lính “bất đắc dĩ trở thành vô danh” đã góp phần làm nên lịch sử.




