Khi chúng tôi chăn trâu ở Cồn Giáp vấp phải một con chó đá, ông Phảng thủ từ của đền Tây bảo đó là một trong hai con chó đá của đền chạy giặc lạc ra đồng.
Những năm tháng đức tin lưu lạc, chó đá cũng phải chạy lại là lúc ông từ Phảng len lén lên Đền Tây thắp nhang hầu thánh.
Đền có đôi ngựa gỗ và cỗ kiệu sơn thếp rất cầu kỳ. Mà cầu kỳ cũng phải, lễ kỵ Thánh đền Tây là ngày mồng Mười tháng Ba hằng năm, cùng với ngày Quốc giỗ vì Đền Tây cùng với đền Đông thờ hai vị Lạc Tướng của vua Hùng.
Không rõ làng tôi có lịch sử như thế nào mà rõ lắm đình đền, nào là đình Trung, đình Am, nào là đền Đông, đền Tây, rồi lại cả chùa trong, chùa ngoài. Nhưng tất cả đều tan nát hết, chỉ sót lại đền Tây.
Trong cái hồ bán nguyệt trước sân đền, ông Phảng thả sen. Mùa hè, những bông sen nở ra thơm ngào ngạt. Rồi khi hoa sen thả nhụy xuống mặt nước trong vắt của hồ, những đài sen vàng rồi chuyển màu xanh, trong những đài sen ấy, hạt sen bắt đầu mẩy dần đầy hứa hẹn cho đám học trò mỗi chiều đi học về qua ngả đền Tây.
Trong cái hồ bán nguyệt trước sân đền, ông Phảng thả sen. Mùa hè, những bông sen nở ra thơm ngào ngạt. Rồi khi hoa sen thả nhụy xuống mặt nước trong vắt của hồ, những đài sen vàng rồi chuyển màu xanh, trong những đài sen ấy, hạt sen bắt đầu mẩy dần đầy hứa hẹn cho đám học trò mỗi chiều đi học về qua ngả đền Tây.
Bà nội tôi dặn, hễ lên đền, thời không được nhìn thẳng vào ông ngựa nếu không là ngài quở cho mờ mắt. Chả biết có phải ông nội tôi trót nhìn thẳng vào ông ngựa năm nao hay không mà khi tôi lớn, mắt ông đã lòa, suốt ngày ông chỉ lần từ giường ra võng rồi ru mấy đứa cháu bằng câu chuyện người hóa hổ.
Những năm tháng ấy, ngoài ông từ Phảng chăm chỉ nhang đèn, cũng chỉ có dăm người liền bà chạc tuổi bà nội là thi thoảng lên đền dâng đĩa hoa phẩm oản. Tuy không hẳn nhang lạnh khói tàn, nhưng việc thánh xem chừng cũng hiu hắt lắm.
Chỉ có mấy ngày Tết là đền như được thay áo mới. Hăm chín Tết, ông Phảng dựng lá cờ ngũ sắc ở ngoài sân. Các bà bớt thời gian ruộng vườn dần xẩy lên quét dọn đám lá muỗm rụng kín sân đền.
Tối Ba mươi mới thật là linh thiêng cửa Thánh. Nhà bác Oanh, nhà bà Diêm xóm Cống, nhà bà Lách, nhà bà Đương xóm Đình, mỗi nhà một mâm xôi con gà thủ lợn, cái lồng bàn đậy ghé trên mâm, đội lên đền lễ thánh dưới trời mưa Xuân rây rắc.
Giao thừa. Bánh pháo Điện quang nổ giòn giã đầu tiên báo hiệu Xuân sang được đốt trên sân đền từ tay ông Phảng. Pháo nổ giòn, xé đều, giấy hồng gác cả lên cành muỗm báo cho dân làng biết năm nay lại một năm khuất bão, được mùa.
Thời gian cứ thế chảy trôi. Đền Đông, đình Am rồi chùa trong và mới nhất là chùa ngoài đã dựng lại, khói hương lúc nào cũng ấm áp. Ông Phảng, lúc còn sống vẫn đốt pháo bằng cuốn băng cát xét có tiếng kêu phát ra tẹt tẹt tẹt từ cái loa mắc trên cây muỗm.
Có thêm nhiều xôi gà thủ lợn tối Ba mươi lễ thánh xin lộc đền Tây. Nhưng không còn giấy hồng xác pháo và mùi diêm sinh phảng phất dưới làn mưa lắc rắc sân đền.
Năm tháng đã đi qua...