Luật quy định rõ sáu trụ cột quản lý từ chiến lược, thể chế, giám sát vòng đời dữ liệu, thanh tra kiểm tra, đến đào tạo nhân lực và hợp tác quốc tế. Nguyên tắc cốt lõi là bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo đảm công khai, minh bạch và chia sẻ dữ liệu hiệu quả. Cùng với việc xây dựng Trung tâm Dữ liệu quốc gia, Luật mở đường cho quản trị dữ liệu hiện đại, đồng bộ, góp phần cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và thúc đẩy chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.
Trong kỷ nguyên số, dữ liệu không chỉ là “nhiên liệu” của đổi mới sáng tạo mà còn là tài nguyên chiến lược, quyết định năng lực quản trị quốc gia, sức cạnh tranh của nền kinh tế và hiệu quả phục vụ người dân, doanh nghiệp. Việc ban hành Luật Dữ liệu 2024 đã thiết lập khuôn khổ pháp lý toàn diện, xác định rõ nội dung quản lý nhà nước về dữ liệu, cơ chế phối hợp và vai trò đầu mối của Bộ Công an (trừ lĩnh vực thuộc Bộ Quốc phòng), qua đó thống nhất hành động, bảo đảm an ninh, an toàn dữ liệu song hành với phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.
Điều 8 Luật Dữ liệu quy định đầy đủ các “trụ cột” quản lý: (1)xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện Chiến lược dữ liệu quốc gia, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn; (2)tuyên truyền, hướng dẫn thực thi; (3)quản lý, giám sát toàn bộ vòng đời dữ liệu gắn với bảo đảm an ninh, an toàn dữ liệu; (4)báo cáo - thống kê - nghiên cứu - phát triển thị trường dữ liệu; (5)thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm; (6)đào tạo nhân lực và hợp tác quốc tế. Cách tiếp cận này thể hiện tầm nhìn tổng thể: dữ liệu phải được quản trị bằng luật lệ, tiêu chuẩn và kỷ luật vận hành, không thể phó mặc cho tự phát hoặc chỉ nhìn dưới lăng kính kỹ thuật.
Đồng thời, Luật xác lập nguyên tắc nền tảng: bảo đảm quyền con người, quyền công dân, công khai, minh bạch, bình đẳng trong tiếp cận, khai thác dữ liệu; thu thập phải chính xác, có kế thừa, đi kèm bảo vệ dữ liệu chặt chẽ và kết nối - chia sẻ hiệu quả để phục vụ dịch vụ công, thủ tục hành chính và hoạt động của các chủ thể. Đây là câu trả lời trực diện trước các luận điệu xuyên tạc cho rằng quản lý dữ liệu nhằm “độc quyền thông tin”: luật đặt trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân lên hàng đầu.
Luật quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về dữ liệu; Bộ Công an là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong quản lý nhà nước về dữ liệu; Bộ Quốc phòng quản lý phần việc thuộc phạm vi mình; các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh xây dựng, phát triển cơ sở dữ liệu và phối hợp với Bộ Công an thực hiện quản lý nhà nước. Như vậy, đây là cơ chế phân công - phối hợp - kiểm soát nhiệm vụ, chứ không phải “tập trung quyền lực thông tin” vào một cơ quan như các thông tin sai lệch quy chụp.
Trên thực tiễn triển khai, nghiên cứu đã chỉ rõ trách nhiệm ở hai tầng: (1)Bộ Công an là trung tâm xây dựng thể chế, tiêu chuẩn; hướng dẫn, kiểm tra, giám sát an ninh, an toàn dữ liệu; xây dựng và vận hành Trung tâm dữ liệu quốc gia; điều phối kết nối, chia sẻ dữ liệu; đào tạo lực lượng chuyên trách; (2)Công an các đơn vị, địa phương - tổ chức thi hành Luật tại cơ sở, quản lý các cơ sở dữ liệu chuyên ngành (dân cư, căn cước, đăng ký, an ninh trật tự…), bảo đảm dữ liệu “đúng, đủ, sạch, sống”, đồng bộ về Trung tâm Dữ liệu quốc gia; đồng thời nòng cốt bảo đảm an ninh mạng, an toàn dữ liệu, phối hợp xử lý vi phạm và tuyên truyền, hướng dẫn người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ số an toàn.
Một điểm đáng chú ý, Luật giao Bộ Công an chủ trì công bố danh sách cơ quan cung cấp dữ liệu, danh mục dữ liệu, bảng mã dùng chung để xã hội tra cứu, khai thác, cơ chế này tăng tính minh bạch và khả năng tương tác giữa các hệ thống dữ liệu. Việc kết nối - chia sẻ - điều phối dữ liệu cũng được quy định chặt chẽ, có thể huy động thẩm quyền của Thủ tướng trong tình huống đột xuất, cấp bách (thiên tai, dịch bệnh…) nhằm bảo vệ lợi ích công cộng, đồng thời vẫn giữ nguyên tắc sử dụng đúng mục đích, bảo đảm an ninh, an toàn.
Về cung cấp dữ liệu cho cơ quan nhà nước, Luật chỉ rõ những trường hợp đặc biệt, hữu hạn (ứng phó tình trạng khẩn cấp; nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia chưa đến mức ban bố khẩn cấp; thảm họa; phòng, chống bạo loạn, khủng bố). Cơ quan tiếp nhận phải sử dụng đúng mục đích, bảo đảm an ninh, an toàn dữ liệu, hủy ngay khi không còn cần thiết và thông báo cho chủ thể/đơn vị đã cung cấp (trừ trường hợp bí mật nhà nước, bí mật công tác). Đây là hàng rào pháp lý nhằm răn đe lạm dụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp.
Nghiên cứu và thực tiễn triển khai cho thấy Trung tâm dữ liệu quốc gia là hạ tầng cốt lõi của chuyển đổi số quốc gia, được xây dựng theo lộ trình: 2023-2025 (hạ tầng ban đầu), 2026-2028 (mở rộng, nâng năng lực), 2029-2030 (hoàn thiện, tối ưu). Nhiệm vụ song hành gồm: ban hành Khung quản trị dữ liệu tổng thể, Bộ tiêu chuẩn kiến trúc cơ sở dữ liệu để các bộ, ngành, địa phương tích hợp, đồng bộ; tổ chức điều phối dữ liệu; giám sát chất lượng dữ liệu; bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống ở cấp quốc gia.
Cùng với đó, Nghị quyết số 175/NQ-CP về Đề án Trung tâm Dữ liệu quốc gia, các nhiệm vụ Chính phủ giao đã được thông tin rộng rãi trên báo chí chính thống, Trung tâm Dữ liệu quốc gia tích hợp và chia sẻ dữ liệu liên thông, cung cấp nền tảng dùng chung, tạo động lực cải cách thủ tục hành chính, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và kinh tế số. Nhấn mạnh Trung tâm Dữ liệu quốc gia là “hệ sinh thái dữ liệu dùng chung của quốc gia”, có ý nghĩa kết nối đồng bộ và phá bỏ tình trạng cát cứ dữ liệu - một điểm then chốt để bác bỏ quan điểm sai lệch cho rằng mô hình mới “khép kín” hay “độc quyền”.
Ở tầm chiến lược, Chiến lược Dữ liệu quốc gia đến năm 2030 đặt mục tiêu: hoàn thiện thể chế, mở dữ liệu theo lộ trình, phát triển thị trường dữ liệu, hình thành các sàn giao dịch dữ liệu, chuẩn hóa - liên thông dữ liệu giữa bộ, ngành, địa phương; phát triển nguồn nhân lực dữ liệu; mở rộng hợp tác quốc tế và trao đổi dữ liệu xuyên biên giới theo pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế. Khẳng định Luật Dữ liệu 2024 tạo khuôn khổ pháp lý cho các trục nhiệm vụ này, là điều kiện để đưa dữ liệu thành tài sản, thúc đẩy tăng trưởng mới.
Những nội dung trên xé rách hoàn toàn các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, các loại đối tượng:
- Thứ nhất, xuyên tạc Luật Dữ liệu “tập trung quyền kiểm soát thông tin” là sai bản chất. Luật ghi rõ Chính phủ thống nhất quản lý, phân định đầu mối (Bộ Công an) và phạm vi (Bộ Quốc phòng; các bộ, ngành, địa phương). Mô hình này nhằm rõ người - rõ việc - rõ trách nhiệm, bảo đảm an ninh dữ liệu đi cùng khả năng khai thác, chia sẻ phục vụ phát triển.
Thứ hai, suy diễn “thu thập, sử dụng dữ liệu tùy tiện” không phù hợp với Luật. Chỉ trong trường hợp đặc biệt, hữu hạn vì lợi ích công (khẩn cấp, an ninh quốc gia, thảm họa, chống khủng bố) mới yêu cầu cung cấp dữ liệu mà không cần sự đồng ý và cơ quan nhận dữ liệu phải dùng đúng mục đích, bảo đảm an ninh, an toàn, hủy khi không còn cần thiết, có cơ chế trách nhiệm giải trình rất cụ thể.
Thứ ba, gán ghép “độc quyền hạ tầng” là khiên cưỡng. Luật nêu Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, nghiên cứu, phát triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ dữ liệu, xây dựng trung tâm lưu trữ, xử lý tại Việt Nam, phát triển thị trường dữ liệu, tạo không gian cạnh tranh, hợp tác công-tư lành mạnh.
Thứ tư, quy chụp “mơ hồ khái niệm” không có cơ sở. Luật đã định nghĩa rõ ràng các thuật ngữ “dữ liệu quan trọng”, “dữ liệu cốt lõi” và giao Chính phủ quy định tiêu chí; đồng thời chuẩn hóa phân loại dữ liệu theo mức độ chia sẻ và mức độ quan trọng để có cơ chế bảo vệ tương ứng.
Thứ năm, luận điệu “không minh bạch” bị bác bỏ bởi chính thiết kế luật và thực tiễn công khai, danh mục dữ liệu mở, cổng dữ liệu, công khai có điều kiện theo Luật Tiếp cận thông tin; báo chí chính thống liên tục thông tin về Trung tâm Dữ liệu quốc gia, Chiến lược dữ liệu, lộ trình triển khai. Luật Dữ liệu phản ánh đậm nét yêu cầu minh bạch, liên thông, coi dữ liệu là động lực của cải cách, phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Luật Dữ liệu 2024 đã xác lập nội dung quản lý nhà nước về dữ liệu một cách đầy đủ, hiện đại; khẳng định vai trò đầu mối của Bộ Công an trong tổng thể cơ chế Chính phủ thống nhất quản lý, các bộ, ngành, địa phương cùng thực hiện; đồng thời mở đường cho một hạ tầng dữ liệu quốc gia an toàn, liên thông, phục vụ người dân, doanh nghiệp. Đến năm 2030, trọng tâm là (1)hoàn thiện thể chế, chuẩn hóa và liên thông dữ liệu; (2)vận hành Trung tâm Dữ liệu quốc gia; (3)phát triển dữ liệu mở và thị trường dữ liệu; (4)bảo đảm an ninh, an toàn dữ liệu (5)phát triển nhân lực dữ liệu, tạo nền tảng bền vững cho chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Những xuyên tạc, hiểu sai nếu có, đều bị thực tế pháp lý và triển khai bác bỏ, quản lý dữ liệu ở Việt Nam là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy phát triển đất nước trong kỷ nguyên số.
Đỗ Tất Thắng - Phòng An ninh Chính trị nội bộ, CATP Hà Nội