In Film We Love là hành trình truyền cảm hứng, thắp lên ngọn lửa yêu thương, trân trọng di sản điện ảnh Việt Nam.
__________________
Đây là nỗ lực bảo vệ ký ức văn hóa, gìn giữ những giá trị trường tồn, đồng thời mang lại sức sống mới cho di sản điện ảnh, để những thước phim không là di vật mà trở thành cầu nối giữa các thế hệ.
![]() |
Dự án “In Film We Love – Điện ảnh mà là di sản á?” được khởi xướng bởi đạo diễn Nguyễn Hoàng Điệp, bắt nguồn từ sự trăn trở về việc nhận diện điện ảnh như một loại hình di sản văn hóa. Ý tưởng này xuất phát từ thực trạng bảo tồn phim truyện nhựa tại Việt Nam, khi những cuộn phim kinh điển, vốn là tinh hoa của điện ảnh cách mạng, đang đứng trước nguy cơ hủy hoại và lãng quên.
Chuỗi hoạt động của dự án được thiết kế để nâng cao nhận thức về di sản điện ảnh, bao gồm các buổi tọa đàm, hội thảo, chiếu phim, workshop, khóa học điện ảnh và trình diễn nhạc phim. Dự án không chỉ mang lại góc nhìn học thuật mà còn tạo ra không gian giao lưu giữa các chuyên gia, nhà nghiên cứu, giảng viên, nhà làm phim và công chúng. Mục tiêu lớn hơn của dự án là khơi dậy ý thức bảo tồn, phục chế và lưu trữ các tác phẩm phim truyện nhựa, loại hình di sản tư liệu đặc biệt cần được bảo vệ khẩn cấp.
![]() |
| Dự án In Film We Love thu hút được sự quan tâm rất lớn của cộng đồng, khách mời bao gồm những đạo diễn, nhà phê bình, chuyên gia về di sản điện ảnh. |
Sự kiện đầu tiên, tọa đàm “Điện ảnh mà là di sản á?”, diễn ra tại Hà Nội với sự đồng hành của UNESCO. Hơn 400 nghệ sĩ, chuyên gia và khán giả đã tham dự, biến sự kiện thành một điểm nhấn đáng chú ý. Các hoạt động vệ tinh như trải nghiệm chụp ảnh bằng máy phim và khám phá bối cảnh làm phim tại không gian sáng tạo Ơ Kìa Hà Nội cũng thu hút hơn 200 lượt tham gia. Thành công bước đầu này đã mở đường cho hợp phần bảo tồn và phục chế phim truyện nhựa kinh điển Việt Nam.
Trong năm 2024, đạo diễn Nguyễn Hoàng Điệp, người khởi xướng dự án, đã có nhiều chuyến thăm và làm việc tại các viện phim lớn như Fukuoka (Nhật Bản), TFAI (Đài Loan)... gặp gỡ những chuyên gia quốc tế về lưu trữ, bảo tồn, và phục chế phim. Những kinh nghiệm được nữ đạo diễn và các khách mời chia sẻ trong chuỗi sự kiện tiếp nối tại Đà Nẵng, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã đi sâu vào ký ức của nền điện ảnh Việt Nam cho tới các câu chuyện pháp lý, khái niệm di sản, nhằm mở rộng góc nhìn cho cả công chúng lẫn các nhà quản lý. Những nỗ lực không mệt mỏi trên đã được ghi nhận khi dự án được Quỹ PURIN, một trong những quỹ điện ảnh uy tín nhất châu Á, vinh danh là dự án tiêu biểu năm 2024.
![]() |
| Phim bị hư hỏng tại Hãng Phim truyện Việt Nam. Ảnh: Đạo diễn Ngô Thanh Vân |
![]() |
Những câu chuyện được chia sẻ trong chuỗi tọa đàm thuộc dự án In Film We Love đã khắc họa rõ nét giá trị vượt thời gian của phim nhựa. Không chỉ là phương tiện ghi hình hay công cụ giải trí, phim nhựa còn là kho tư liệu quý báu, lưu giữ ký ức lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam qua nhiều thế hệ.
Nói về những thách thức khi làm việc với phim nhựa, NSND Nguyễn Hữu Tuấn, nhà quay phim gạo cội của điện ảnh Việt Nam cho biết: “Phim nhựa là vật liệu đầy mỏng manh và dễ bị tổn hại. Lớp thuốc tráng trên phim chỉ dày tính bằng micromet, dễ hỏng nếu gặp thay đổi nhỏ về nhiệt độ hay độ ẩm. Thậm chí, phim chưa kịp quay đã mốc vì bảo quản không đúng chuẩn. Thời ấy, phim nhập từ Đức phải mất vài tháng mới về đến Việt Nam, khi đến nơi chất lượng thường đã giảm đi nhiều”. Nhà quay phim nhấn mạnh, những thước phim nhựa là kết tinh của công sức, tiền bạc và tâm huyết, nên việc bảo tồn chúng là trách nhiệm không thể xem nhẹ.
![]() |
NSND Minh Châu, người gắn bó với phim nhựa từ những năm 1980, chia sẻ giá trị của mỗi mét phim: “Một mét phim chỉ cho hai giây hình ảnh, nên mọi người trong đoàn đều phải làm việc với sự chính xác tuyệt đối. Mỗi cảnh quay đều quý giá đến mức cả đoàn hồi hộp chờ phim mang về Hà Nội in tráng, lo lắng chỉ sợ phim hỏng. Những bộ phim từ mấy chục năm trước không chỉ là nghệ thuật mà còn là những lát cắt lịch sử, không thể làm lại”.
NSƯT Chiều Xuân bày tỏ sự xót xa trước thực trạng hư hỏng nặng nề của kho phim nhựa tại Hãng phim truyện Việt Nam. “Phim nhựa không chỉ là tác phẩm nghệ thuật mà còn là chứng nhân của lịch sử. Những hình ảnh trong phim tái hiện đời sống, văn hóa của một thời kỳ. Thế nhưng, nhiều cuộn phim đã mốc, hỏng, thậm chí không thể phục chế. Chúng ta cần bảo tồn trước khi quá muộn, bởi đây là những giá trị không thể thay thế”, bà khẳng định.
![]() |
![]() |
Một góc nhìn hiện đại hơn về phim nhựa được đạo diễn Leon Quang Lê mang đến qua hành trình làm “Quán Kỳ Nam”, bộ phim quay hoàn toàn bằng chất liệu phim 35mm. “Phim nhựa không chỉ là công cụ ghi hình mà còn có hồn vía riêng.
Mỗi cuộn phim phản ứng khác nhau với ánh sáng, bối cảnh, đòi hỏi người làm phim phải hiểu và trân trọng chất liệu này”, Leon Quang Lê chia sẻ. Dù thừa nhận việc làm phim nhựa hiện nay là một lựa chọn đầy thách thức, khi các phòng lab tráng phim đã đóng cửa và chi phí sản xuất tăng cao nhưng nam đạo diễn khẳng định “khi đã được quay phim nhựa rồi thì sẽ chỉ tiếp tục làm phim nhựa thôi”.
![]() |
Có thể nói, di sản điện ảnh là một cuộc đối thoại giữa quá khứ và hiện tại. Bảo tồn không chỉ là lưu giữ vật chất mà còn là tái kết nối giá trị của những bộ phim với cộng đồng. Di sản điện ảnh không chỉ là những cuộn phim cũ, mà là phần ký ức nhân văn quý giá của chúng ta. Việc phục chế và số hóa còn giúp di sản sống mãi trong cộng đồng.
Chuyên gia về lưu trữ phim quốc tế Martino Capriani đánh giá công tác lưu trữ tại Việt Nam đang ở mức tốt nhất trong khu vực Đông Nam Á. Ông ngưỡng mộ bộ sưu tập phim nhựa quý giá tại Viện Phim Việt Nam nhưng lo ngại rằng quá trình số hóa, dù được xem như giải pháp bền vững, lại tiềm ẩn nguy cơ. “Lưu trữ số không thể thay thế hoàn toàn bản gốc trên vật liệu phim. Nếu không có chiến lược cân bằng, chúng ta có thể vô tình đẩy di sản điện ảnh vào nguy cơ biến mất”, ông Capriani cảnh báo.
![]() |
| Dự án đã diễn ra tại các thành phố lớn trong cả nước như Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh. |
Nhà phê bình điện ảnh Nguyên Lê, người gắn bó với việc phát hành bản remaster định dạng 4K của “Ba Mùa” (đạo diễn Tony Bùi), đánh giá rằng cơ hội để di sản điện ảnh Việt Nam bước ra thế giới là rất lớn. Tuy nhiên, ông cũng nhận định những người tiên phong, như đạo diễn Nguyễn Hoàng Điệp, sẽ gặp không ít khó khăn. “Điện ảnh là cách nhanh nhất để thế giới hiểu về chúng ta, vượt qua những định kiến rập khuôn”, Nguyên Lê nói, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tạo điều kiện để các bộ phim Việt Nam được nhìn nhận trên phạm vi quốc tế.
Tôi muốn di sản điện ảnh không chỉ được trân trọng, nâng niu mà dẫu tiến hành bất cứ hình thức bảo tồn nào: phục chế, phát huy, khai thác bản quyền… cũng phải được thực hiện một cách bài bản, hợp pháp và chính tắc nhất.
Đạo diễn Nguyễn Hoàng Điệp
Đặc biệt quan tâm tới những bộ phim được thực hiện bằng định dạng kỹ thuật số, đạo diễn Phan Đăng Di cho biết: “Phim nhựa dù mong manh vẫn được trân trọng cất giữ trong kho nhà nước, nhưng các tác phẩm kỹ thuật số thì ai sẽ quan tâm, lưu giữ và phát huy giá trị của chúng? Khán giả muốn tìm xem những phim này sẽ tiếp cận những bản phim chất lượng từ đâu?”. Để đối mặt với thách thức này, đạo diễn Phan Đăng Di không chỉ quyên tặng các phim của mình cho Viện Phim Việt Nam mà còn hợp tác với Viện Phim Fukuoka (Nhật Bản) trong nhiều năm với vai trò giám tuyển để xây dựng bộ sưu tập các tác phẩm điện ảnh Việt Nam đương đại ở đây.
Trở lại với phim nhựa, đạo diễn Phan Đăng Di nhấn mạnh phim chỉ thực sự trở thành di sản khi được trình chiếu và kết nối với công chúng. “Tôi đánh giá cao những nỗ lực của đạo diễn Nguyễn Hoàng Điệp và Ơ Kìa Hà Nội trong việc tái kết nối những tác phẩm kinh điển với khán giả. Nếu không có các hoạt động bảo tồn và phục chế như dự án này, lưu trữ dù có tốt cũng chỉ là giữ những hộp phim, còn giá trị của phim sẽ bị lãng quên.”








