Chỉ thấy… tuyên bố
Từ 2004, sau nỗi đau trên sân nhà với 4 tuyển thủ dính doping tại SEA Games 22, được sự ủy nhiệm của Chính phủ, người đứng đầu ngành thể thao đã đại diện đại diện ký vào “Tuyên bố Copenhagen” để Việt Nam trở thành quốc gia, vùng lãnh thổ thứ 106 chính thức nhập cuộc toàn diện, trong đó cam kết tuyệt đối nói không và tham gia đầy đủ vào công cuộc phòng chống vấn nạn này.
Trung tâm HLTT Quốc gia Hà Nội, chỉ có hơn chục cán bộ y tế phải chăm lo cho gần 1.000 tuyển thủ đủ biết khó khăn, thiếu hụt như thế nào.
Trước mỗi lần xuất ngoại dự tranh các giải đấu, đặc biệt những đại hội lớn, từ khi chuẩn bị đến lúc lên đường, chẳng thấy bao giờ thấy lãnh đạo quên nhấn mạnh, có lúc chỉ đạo gay gắt quân sĩ về đòi hỏi “tuyệt đối” này. Đến lượt các lãnh đạo, HLV cũng ra rả quán triệt theo kiểu hô hào chung chung với các tuyển thủ...
Để rồi cả quá trình “anti - doping” của TTVN cứ trong vòng luẩn quẩn, để rồi đều đặn nhận những ca doping, cả thảy 19 trường hợp đến thời điểm này, trong đó đau nhất là vụ của tuyển thủ thể dục dụng cụ Đỗ Ngân Thương tại Olympic 2008 và lực sĩ cử tạ Hoàng Anh Tuấn ngay trước thềm ASIAD 2010, và giờ là Trịnh Văn Vinh.
VĐV Trịnh Văn Vinh |
Cốt lõi là ở chỗ: thực chất chúng ta không có bất cứ hành động phòng chống đúng nghĩa nào cả. Đơn giản và thiết thực nhất như việc tuyên truyền giáo dục tinh thần nói không với doping, danh mục các chất bị cấm tới các VĐV chỉ được tiến hành sơ sài cho có, mỗi khi có sự kiện, để rồi “trôi tuột” luôn qua đầu. Qua khảo sát của một cơ quan chuyên môn của chính ngành thể thao, có ít nhất 90% số tuyển thủ quốc gia không nắm được những chất bị cấm cơ bản nhất của ngay môn mình.
1000 tuyển thủ, kiểm tra 35
Trước thềm SEA Games 29, TTVN đã tiến hành lấy 35 mẫu thử doping gửi sang cho Ban Tổ chức. Đây là con số tối thiểu theo yêu cầu, và nếu không là quy định bắt buộc chưa chắc ngành thể thao đã làm. Số lượng này chỉ chiếm 7% tổng số tuyển thủ của đoàn TTVN tham dự Đại hội. Trong khi đó, như thống kê, ở những nước như Malaysia, Thái Lan hay Singapore, có khoảng 30-50% số VĐV của họ được “kiểm soát” trước mỗi kỳ SEA Games. Lý do chính như lý giải của những người có trách nhiệm bởi hiện tại Việt Nam dù có một bệnh viện chuyên ngành thể thao cùng một Trung tâm Phòng chống Doping song lại không thể kiểm tra tại chỗ. Sau khi lấy mẫu phải thuê một Trung tâm quốc tế kiểm tra với mức phí 200-300 USD/mẫu.
Con số 35 mẫu đã quá ít song chính cách lấy 35 mẫu thử này của ngành thể thao cũng đầy bất cập. Đội tuyển của môn vốn thuộc nhóm nguy cơ cao là xe đạp không lấy mẫu. Đội tuyển điền kinh có tới 50 tuyển thủ cũng chỉ lấy 3 mẫu. Điều đáng nói, danh sách VĐV phải kiểm tra được chỉ định sẵn, chứ không theo phương thức ngẫu nhiên. Và VĐV từng dính doping lại không bị lấy mẫu, trong khi như thông lệ, với những đối tượng từng có “án” doping chắc chắn sẽ bị kiểm soát chặt chẽ.
Nỗi ám ảnh với TTVN ngày càng đè nặng bởi các giải quốc tế, các Liên đoàn - Hiệp hội thể thao quốc tế theo môn giờ đây còn đẩy mạnh kiểm tra ngẫu nhiên, kiểm tra ngoài thi đấu, kiểm tra đột xuất. Trường hợp dính doping của tuyển thủ điền kinh Vũ Thị Ly tại Đại hội Thể thao bãi biển châu Á 2016 vì dùng thuốc cảm sốt do bác sĩ kê mà không kịp cập nhật danh mục chất bị cấm, hãy còn nóng hổi. Và ngay như Trịnh Văn Vinh cùng Nguyễn Thị Phương Trang đã bị phát hiện qua một cuộc lấy mẫu đột xuất của Liên đoàn Cử tạ Thế giới ngay tại Việt Nam, trước thềm Đại hội. Trong khi đó, như ở Trung tâm HLTT Quốc gia Hà Nội, chỉ có hơn chục cán bộ y tế phải chăm lo cho gần 1.000 tuyển thủ đủ biết khó khăn, thiếu hụt như thế nào. Đội ngũ này luôn cố gắng hết sức mà vẫn phải lo lắng vì không thể kiểm soát được hết.
Mọi hậu quả rốt cuộc lại đẩy hết cho điều kiện khách quan, khó khăn ràng buộc, nào thiếu kinh phí, thiếu phương tiện, mà lý do được viện dẫn nhiều nhất có lẽ vẫn là vì TTVN chưa có labo kiểm tra doping. Gốc rễ của nó, xuất phát từ chính nhận thức hời hợt, sự chủ quan của chính các nhà quản lý cùng sự thiếu đầu tư, hay nói chính xác hơn là không đầu tư gì cho mảng trọng yếu này.
Việc dính doping của VĐV này VĐV khác, lúc này hay lúc khác, và lớn là cả mảng phòng chống nguy cơ doping với TTVN suy cho cùng vẫn là câu chuyện “may nhờ rủi chịu”.
Trịnh Văn Vinh tan nghiệp thể thao
Theo lý giải của nhà cựu vô địch thế giới và đương kim á quân ASIAD Trịnh Văn Vinh, trong thời gian chuẩn bị cho Đại hội TDTT toàn quốc 2018, do chấn thương ở lưng và đầu gối, anh có chủ động chữa trị bằng việc tiêm thuốc nhưng không nhớ là những loại thuốc gì và trong thành phần thuốc có chất cấm hay không. Điều đáng nói, ngay trước đó, tại ASIAD 2018, đô cử giành HCB này cũng đã được kiểm tra doping với kết quả âm tính. Mẫu thử của Vinh do Liên đoàn Cử tạ thế giới sang tận Việt Nam lấy kiểm tra vào tháng 11 năm ngoái đã cho kết quả có chứa chất Anabolic cùng chất Adiol, hai chất có trong danh mục cấm. Với án phạt cấm thi đấu 4 năm, niềm hi vọng tranh huy chương Olympic này gần như không có cơ hội để làm lại, và phải tính đến chuyện giải nghệ.