Cộng đồng trong ngày hội làng. |
Làng Lệ Mật vào cuối thời Lê đầu thời Nguyễn là một xã thuộc tổng Gia Thụy, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc. Năm 1961, xã Việt Hưng cùng các xã, thị trấn trong huyện Gia Lâm được nhập về thành phố Hà Nội (nay là phường Việt Hưng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội). Lệ Mật là một làng cổ, xưa có tên là “Trù Mật”, có lẽ vì kỵ húy chúa Trịnh Chù (hay còn gọi là Trịnh Cương) nên đổi thành tên như hiện nay.
Tương truyền, vào đời vua Lý Nhân Tông (1043), có một công chúa cưng của vua thường bơi thuyền du ngoạn trên dòng Thiên Đức (tức sông Đuống ngày nay) và vào một hôm, công chúa bị đắm thuyền, chết đuối. Vua trao giải cho ai tìm thấy công chúa nhưng không người nào tìm được. Có một chàng thanh niên ở Lệ Mật đã chiến đấu dũng cảm với thủy quái và cuối cùng đưa được ngọc thể của công chúa lên bờ.
Vua ban thưởng cho chàng rất nhiều gấm vóc, vàng bạc, nhưng chàng từ chối tất cả, chỉ xin vua cho đưa dân nghèo Lệ Mật và mấy làng quanh đó sang khai khẩn vùng đất hoang phía Tây kinh thành Thăng Long. Sau khi được vua ưng thuận, dân chúng Lệ Mật đã cùng chàng vượt dòng sông Nhị Hà (hay còn gọi là sông Hồng) sang khai khẩn khu đất phía Tây thành Thăng Long. Vùng đất ấy dần trở nên trù phú, mở rộng thành 13 trại ấp mà sách sử gọi là khu “Thập Tam trại”.
Đoàn rước Lệ Mật. |
Lệ Mật mang những nét đặc trưng của một làng truyền thống vùng châu thổ Bắc bộ với cây đa, giếng nước, sân đình. Trong làng còn lưu giữ được quần thể di tích lịch sử văn hóa phong phú như đình, chùa, miếu, lăng mộ…
Đình Lệ Mật nằm ngay đầu làng, được xây dựng từ thời hậu Lê. Đình thờ Đức thánh Lệ Mật, người có công khai phá vùng đất phía Tây thành khu “Thập tam trại”, chăm lo đời sống cho dân trong vùng. Đặc biệt là mở mang nghề nghiệp và chữa bệnh cho dân.
Lễ hội đình Lệ Mật là một lễ hội lớn trong vùng, còn bảo lưu nhiều giá trị văn hóa độc đáo, trong việc tế lễ, rước nước và nhiều loại hình văn hóa dân gian khác. Theo thông lệ, đúng 8 giờ sáng ngày 21/3 ÂL, sau 3 hồi trống chiêng chính thức khai hội Lệ Mật. Mở đầu cho tế lễ bao giờ cũng là hội Tư văn, tiếp theo 19 họ trong làng dâng lễ. Ngày 21 có thể coi là ngày dành cho “việc họ”, bởi các dòng họ tự lo liệu, đóng góp kinh phí làm đò lễ dâng Thánh.
Bên cạnh đó, dân làng còn làm Tế nhập tịch, người ta gọi đây là ngày mở hội hoặc mở đám, bắt đầu bằng lễ rước nước. Cũng như nhiều lễ hội khác, nghi lễ rước nước trong lễ hội Lệ Mật không chỉ mang ý nghĩa cầu nước mà còn chuyển tải nhiều nội dung khác. Nước vừa làm cho con người thanh sạch, vừa mang lại nguồn sức mạnh vô biên.
Múa nghi lễ Giao Long. |
Sau lễ rước nước là lễ rước văn. Cũng như rước nước, đây là một nghi lễ rất cổ. Trước kia làng quy định năm năm hoặc ba năm mới rước văn một lần. Bây giờ, do có điều kiện năm nào hội người ta lại sao chép bản văn mới và tổ chức rước một lần, sau khi đọc xong thì hóa, nghi thức này do Hội Tư văn đảm nhiệm.
Vào ngày hội Lệ Mật, một nghi thức độc đáo vẫn còn được người dân địa phương bảo lưu đó là tục đánh cá thờ hay còn gọi Lễ tục Đả Ngư. Lễ tục này được bắt nguồn từ sự tích chàng trai họ Hoàng đã xả thân đánh Giảo Long, vớt công chúa nhà Lý.
Như một mạch nguồn truyền thống, hàng năm vào dịp lễ hội, dân làng Lệ Mật tổ chức lễ “ Đả ngư” tức đánh cá. Lễ Đả ngư là một màn trình diễn tâm linh, thông qua đó gửi lời ước nguyện tri ân của công chúa đối với vị thành hoàng làng. Ước nguyện ấy dường như có ứng nghiệm là đêm trước đánh cá, trời thường vận mưa, để thông qua mưa gió mà chuyển cá từ Hồ Tây về giếng Ngọc. Nhân dân địa phương ai cũng tin rằng con cá của công chúa gửi về bao giờ cũng được đánh dấu bằng chấm đỏ hoặc chấm ngả vàng ở trên lớp vẩy của thân cá.
Đến sáng sớm ngày 23, làng cử một đoàn nghi lễ trống dong cờ mở ra đón nhân dân Thập tam trại. Đi đầu là cờ ngũ hành, sau đó đến trống khẩu, phường bát âm, đội múa giảo long, đội tế nam, đội dâng hương và dân làng Lệ Mật. 13 đoàn Thập trang trại dần tiến vào Đình làm lễ. Năm nào “Đại lễ” thì dân Thập tam trại rước kiệu, năm nào “hội lệ” thì các trại chung nhau một lãng hoa lớn dâng lên Đức thánh. Sau đó lần lượt các trại vào dâng lễ.
Việc sắp xếp kiệu thánh của các trại trước sân đình được bố trí cố định theo chức tước và thời điểm “giáng thế” của các vị thần, thứ tự cụ thể như sau: Đức thánh Lệ Mật, Đức thánh bố Cái đại vương, Đức thánh Linh lang, Đức thánh Huyền thiên Hắc đế, Ngọc Hoa Công chúa, Thánh Mẫu Cát Triệu, Đức thánh Quảng Hồng, Đức thánh Lý Châu Nương, Đức thánh Ngọc Nương và cuối cùng là Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Song song với phần lễ nghi, phần hội bao giờ cũng thu hút đông đảo người tham gia, đây là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất đặc sắc. Theo tục lệ xưa cứ mỗi khi làng mở hội thì màn trình diễn múa nghi lễ Giảo Long trở thành tâm điểm của lễ hội, nó bao quát toàn bộ thời gian, không gian của lễ hội.
Múa nghi lễ Giảo Long có thể được coi như một hệ thống múa bao gồm nhiều vũ điệu với tiếng nói, ngôn ngữ riêng của nó. Tục múa Giảo Long được trình diễn trong suốt 5 ngày diễn ra lễ hội, thường vào buổi trưa khi các nghi lễ thánh đã hoàn tất.
Với giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ và được lưu truyền từ đời này sang đời khác thông qua các nghi thức tế lễ, trong các bài nhạc cổ truyền, các điệu múa dân gian, trong cờ lọng, y phục ngày hội,... lễ hội Lệ Mật - lễ hội truyền thống đầu tiên của quận Long Biên - đã được Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2014.