Ông Lavrov cũng gợi ý rằng có "hạt nhân của sự hợp lý" trong các phản ứng chính thức đối với các yêu cầu của Nga mà phía Mỹ và NATO đã đưa ra vài ngày trước đó. Đối với một số nhà phân tích phương Tây, bình luận của Ngoại trưởng Lavrov là một dấu hiệu hy vọng cho thấy Điện Kremlin đã đạt được các mục tiêu trung cấp và có thể sẽ chuyển hướng.
Theo phân tích này, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã có được sự chú ý của phương Tây: bằng cách điều động hơn 100.000 quân đến biên giới Ukraine và đưa ra một tối hậu thư, ông đã buộc Mỹ và NATO phải ngồi xuống bàn đàm phán. Sau đó, chính phủ Nga đã hành động với tinh thần có tính toán, theo đuổi một cách tiếp cận khiến Mỹ và các đồng minh NATO của họ không còn lựa chọn nào khác ngoài đàm phán bình đẳng.
Tuy nhiên, đối với phần lớn công chúng Nga, hành động của Điện Kremlin trông rất khác. Trong bối cảnh lo lắng phổ biến về nền kinh tế suy thoái và đại dịch COVID-19, giờ người Nga có thể bị kéo vào một cuộc chiến tranh quy mô lớn, chính quyền Moscow dường như đang bị kéo vào một cuộc đối đầu không cần thiết và liều lĩnh với phương Tây.
Đối với nhiều người Nga, ngay cả giọng điệu hòa giải gần đây của Ngoại trưởng Lavrov cũng là một hồi chuông đáng lo ngại. "Chúng tôi không muốn chiến tranh, nhưng chúng tôi cũng sẽ không cho phép bất kỳ ai chà đạp lên lợi ích của chúng tôi hoặc phớt lờ chúng", nhà ngoại giao cấp cao của Nga khẳng định.
Đây là những lập luận quen thuộc tại Nga, bởi nó xuất phát từ lời bài hát "Nếu ngày mai mang đến chiến tranh", một bài hát nổi tiếng của Liên Xô từ thời Thế chiến thứ hai: "Chúng tôi không muốn chiến tranh, nhưng chúng tôi sẽ tự vệ". Bài hát đã thu hút sự chú ý của công chúng khi đó, trước khi Liên Xô đưa quân sang lãnh thổ Phần Lan.
Như với Phần Lan năm 1939, phía Moscow luôn nói rằng họ muốn tránh một cuộc xung đột, nhưng dường như đang làm mọi cách để kích động một cuộc xung đột. Ngày nay, thường xuyên có tin đồn về những nỗ lực của Nga nhằm tạo cớ gây chiến, bao gồm một tin đồn liên quan đến đoạn video ghi lại cảnh một cuộc tấn công của người Ukraine nhắm vào dân thường ở Donbas xuất hiện vào đầu tháng 2. Những chiến thuật như vậy tương tự như những gì Liên Xô đã làm khi kích động chiến tranh với Phần Lan.
Trong nhiều tuần phân tích về các hoạt động chuyển quân của Nga và động cơ rõ ràng của Putin đối với việc xây dựng quân đội, người ta tương đối ít chú ý đến những gì người dân Nga nghĩ về những diễn biến này.
Biểu ngữ "Chúng tôi là Donbass của Nga!" được treo tại thành phố Donetsk, Ukraine. Ảnh: Reuters |
Tuy nhiên, có thể học được nhiều điều từ dữ liệu thăm dò gần đây. Theo nhiều dấu hiệu, các cử tri Nga, bao gồm cả những người ủng hộ Putin, đang có ý kiến trái chiều sâu sắc về cuộc xung đột với Ukraine. Nhiều người lo sợ hậu quả kinh tế nghiêm trọng, với vai trò của Ukraine đối với văn hóa và lịch sử Nga, một số người lo sợ rằng một cuộc chiến tranh sẽ dẫn đến việc rốt cuộc Nga “tự đánh chính mình” (như thần tượng nhạc rock perestroika Boris Grebenshchikov đã nói vào năm 1987). Đối với Putin, bầu không khí căng thẳng trong nước này không phải là không đáng kể. Nếu Nga bị kéo vào một cuộc chiến ở Ukraine, nó có thể đe dọa đến nền tảng tín nhiệm mà Putin đã gây dựng suốt hơn 20 năm.
Mối nguy khủng hoảng kinh tế
Bề ngoài, nhiều người Nga dường như ủng hộ lập trường hiếu chiến của Điện Kremlin đối với phương Tây. Trong cuộc phỏng vấn với Lavrov, bà Margarita Simonyan, người đứng đầu mạng tin tức RT của Nga, đã chuyển câu hỏi mà những người theo dõi trên mạng xã hội cho bộ trưởng ngoại giao: "Khi nào chúng ta sẽ tấn công Washington?"
Mặc dù quan điểm diều hâu của Simonyan đã làm dấy lên nhiều nghi vấn, nhưng quan điểm cơ bản của Điện Kremlin về việc bảo vệ mình khỏi sự xâm lấn của phương Tây dường như thường được ủng hộ. Như một người tham gia cuộc khảo sát ý kiến gần đây đã nhận xét: “Nga sẽ phải đáp trả. Chúng ta đang bị chèn ép từ mọi phía; họ đang cắn chúng ta. Chúng ta phải làm gì? Nhượng bộ chăng?"
Cũng có tiền lệ về các chính sách đối ngoại quyết đoán của Điện Kremlin giành được sự ủng hộ của người dân trong nước. Vào năm 2014, sau khi sáp nhập bán đảo Crimea, mức độ tín nhiệm của ông Putin đã tăng vọt. Đối với nhiều người, bán đảo Crimea mang một ý nghĩa đặc biệt. Đối với những người Nga bình thường, đây là một phần của lãnh thổ đế quốc Nga với dân số nói tiếng Nga và một căn cứ quân sự quan trọng ở Sevastopol. Vì vậy, việc sáp nhập Crimea được nhiều người Nga coi là một niềm an ủi quan trọng cho sự sụp đổ của Liên Xô.
Nhưng không giống như cuộc khủng hoảng hiện nay ở Ukraine, việc sáp nhập Crimea không liên quan đến cuộc đối đầu giữa hai lực lượng vũ trang hạng nặng. Putin đã lấy lại bán đảo, giống như Catherine Đại đế đã làm vào năm 1783, mà không gây ra đổ máu. Ngược lại, bất kỳ chiến dịch nào nhằm khẳng định lại quyền lực của Nga ở Ukraine hiện nay gần như chắc chắn sẽ là một cuộc chiến đẫm máu kéo dài. Khi bàn đến viễn cảnh của một cuộc chiến tranh thực tế, nhiều người Nga tỏ ra e ngại sâu sắc.
Rốt cuộc, cuộc chiến và tình hình bế tắc ở miền đông Ukraine sau chiến dịch Crimea năm 2014 đã cướp đi sinh mạng của hàng nghìn người. Điều này khiến nhiều người Nga lo ngại rằng một cuộc chiến nổ ra với Ukraine sẽ không diễn ra như trường hợp ở Crimea.
Người Nga biết rằng đó sẽ là một cuộc chiến thực sự, với nhiều thương vong. Và khi đối mặt với một cuộc xung đột như vậy, họ trở nên cực kỳ mâu thuẫn trong tư tưởng. Đáng chú ý, vào tháng 4 năm 2021, trong quá trình xây dựng lực lượng ban đầu của Nga ở biên giới giáp với miền đông Ukraine, ý kiến của công chúng về hành động quân sự của Nga đã chia đều: 43% số người được hỏi cho rằng Nga nên can thiệp, trong khi con số tương tự cho rằng không nên.
Sự lo lắng của người Nga về chiến tranh thậm chí còn rõ ràng hơn trong một cuộc thăm dò khác gần đây của Trung tâm Levada, tổ chức bỏ phiếu độc lập có trụ sở tại Moscow.
Trong nghiên cứu của Trung tâm Levada được thực hiện vào tháng 12 năm 2021, kết quả chỉ ra rằng nhiều người Nga bày tỏ sự mệt mỏi khi luôn trong tình trạng đối đầu với phương Tây và Ukraine. Thái độ chủ yếu của những người tham gia là: "Điều đó thật đáng sợ, khó chịu và tôi không muốn tham gia."
Điều này khiến nhiều người Nga cảm thấy rằng đất nước có thể sớm phải đối mặt với thiệt hại kinh tế lớn từ cuộc đối đầu với phương Tây. Trong cuộc thăm dò riêng vào tháng 12, kết quả thăm dò của Levada cho thấy chỉ trong một năm, số người dân Nga dự cảm về một cuộc khủng hoảng kinh tế trong năm 2022 đã tăng lên 64%, so với dưới 50% trong một năm trước.
Đáng chú ý, trong cuộc khảo sát vào tháng 12, tỷ lệ người Nga dự đoán “xung đột vũ trang với một quốc gia láng giềng” trong năm tới đã tăng 14%. Trước tình hình tại biên giới Ukraine, số người dự đoán một cuộc chiến với Mỹ hoặc NATO trong năm tới đã tăng gần gấp đôi, từ 14% lên 25%.
Đồng thời, dường như ngày càng có nhiều lo ngại về nguy cơ nổ ra một “cuộc chiến tranh thế giới". Trong một cuộc khảo sát khác gần đây của Levada về những nỗi sợ hãi phổ biến nhất của người Nga, nỗi sợ về một cuộc chiến tranh thế giới mới chỉ xếp thứ hai sau nỗi sợ rằng những người thân yêu hoặc trẻ em bị bệnh. Theo cuộc thăm dò, 56% người Nga cho biết họ lo sợ về một cuộc chiến tranh thế giới mới, trong khi 14% khác cho biết họ quan tâm vừa phải về nó.
Ngay cả khi không có chiến tranh thực sự, dự báo về số liệu GDP và lạm phát của Nga cho năm 2022 vẫn rất ảm đạm. Trong những tuần gần đây, cuộc đối đầu với phương Tây đã làm suy yếu đồng rúp, vốn vẫn tương đối ổn định trong năm 2021 và tác động xấu tới thị trường chứng khoán của Nga, ảnh hưởng đến thị trường tài chính toàn cầu.
Tâm lý u ám của người tiêu dùng càng gia tăng do lo ngại rằng các lệnh trừng phạt mới của phương Tây có thể khiến Nga không có tiền tệ tự do chuyển đổi hoặc quyền truy cập vào hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT.
Nhìn chung, các lệnh trừng phạt của phương Tây không đóng vai trò quyết định đối với thái độ của Nga về các chính sách của Điện Kremlin, với cuộc thăm dò gần đây cho thấy chỉ 46% người Nga tin rằng các lệnh trừng phạt sẽ ảnh hưởng đến dân số nói chung, trái ngược với giới tinh hoa của Điện Kremlin.
Tuy nhiên, điều đó có thể thay đổi nhanh chóng khi cảm nhận được tác động. Trong một báo cáo gần đây, các nhà kinh tế từ Viện Tài chính Quốc tế có trụ sở tại Washington kết luận rằng việc đình chỉ truy cập SWIFT sẽ "hạn chế đáng kể" khả năng thực hiện các giao dịch tài chính quốc tế hàng ngày của người Nga. Các nhà kinh tế vĩ mô nổi tiếng nhất của Nga cũng đã đưa ra các dự báo liên quan.
Vào cuối tháng 1, ông Evsey Gurvich, người đứng đầu Economic Expert Group, một tổ chức nghiên cứu kinh tế độc lập có trụ sở tại Moscow, nói rằng: “Nếu các lệnh trừng phạt được mở rộng, nền kinh tế Nga sẽ không tăng trưởng hoặc giảm nhẹ”.
"Ném bom Voronezh"
Cho đến nay, mối quan ngại lớn nhất đối với nhiều người Nga về một cuộc chiến ở Ukraine là bản chất của cuộc xung đột. Liên Xô đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh ủy nhiệm với Mỹ tại châu Á và Trung Đông trong quá khứ, nhưng đó là những vùng lãnh thổ xa xôi, có ít mối liên hệ với Nga.
Trong những cuộc xung đột đó, người Nga có xu hướng ủng hộ các cuộc chiến tranh, nhưng rất ít người biết được mức độ can dự thực sự của Liên Xô. Ngoại lệ cho điều này là cuộc chiến tại Afghanistan năm 1979, động thái đã làm suy yếu đáng kể uy tín và kinh tế của Liên Xô. Ngoài ra, Afghanistan có chung đường biên giới với Liên Xô, giống như Ukraine hiện nay với Liên bang Nga, do đó cuộc chiến không dễ bị ngó lơ. Trong cuộc xung đột Afghanistan, một số lượng lớn thanh niên Nga đã hy sinh, và nhiều gia đình thường xuyên sống trong nỗi sợ hãi về việc con trai của họ bị bắt đi lính.
Cũng như cuộc chiến ở Afghanistan, nhiều người lo lắng rằng một cuộc chiến ở Ukraine khó có thể không đổ máu, và họ lo sợ cho tính mạng con em mình. Ukraine ở ngay bên cạnh Nga. Và mặc dù nhiều người Nga có quan hệ gia đình với người Ukraine, nhưng họ không chia sẻ quan điểm của Putin rằng người Ukraine và người Nga thuộc cùng một quốc gia.
Theo một cuộc khảo sát chung gần đây của Levada và Viện Xã hội học Quốc tế Kyiv, quan điểm phổ biến nhất của người Nga - đại diện cho hơn 51% dân số - là Nga và Ukraine nên là những quốc gia độc lập nhưng thân thiện “không cần thị thực và hải quan". Có tới 49% người dân Ukraine cũng cùng quan điểm này.
Ngược lại, chỉ 16% người Nga và 6% người Ukraine ủng hộ ý tưởng về một nhà nước thống nhất. Đáng chú ý, 2/3 người Nga trong độ tuổi từ 18 đến 24 - những người có khả năng tham chiến cao nhất trong cuộc chiến của Putin có thái độ tích cực đối với Ukraine và không sẵn sàng nhập ngũ.
Cho đến nay, các chính sách đối ngoại của Putin nhìn chung dường như đã thúc đẩy sự nổi tiếng của ông. Cùng với việc sáp nhập Crimea, người Nga nói chung đã ủng hộ các nỗ lực của Điện Kremlin trong việc hỗ trợ các khu vực ly khai ở miền đông Ukraine. Mọi hoạt động quân sự kể từ cuộc chiến ngắn với Gruzia vào tháng 8 năm 2008, bao gồm cả chiến dịch của Nga ở Syria, đều nâng cao hoặc duy trì mức độ tín nhiệm của Putin và Điện Kremlin.
Nhưng nhiều người Nga cũng nhận thức được một mô hình khác thường đi cùng với các hoạt động can thiệp của nước ngoài, cả dưới thời Liên Xô và dưới thời Putin: các hành động quân sự của Nga thường đồng thời với việc chính phủ gia tăng kiểm soát hoặc suy thoái kinh tế trong nước.
Chẳng hạn, khi Liên Xô tiến vào Tiệp Khắc năm 1968, bên trong nước Nga đã có một cuộc khủng hoảng chính trị rõ rệt. Áp lực càng gia tăng đối với những người bất đồng chính kiến, và các cải cách kinh tế của Thủ tướng Liên Xô lúc bấy giờ là Alexei Kosygin đã bị dừng lại. Cuộc xâm lược Afghanistan gây ra sự suy kiệt lớn đối với nền kinh tế Nga, đã dẫn đến sự sụp đổ của Liên bang Xô viết. Gần đây hơn, việc sáp nhập Crimea vào năm 2014, mặc dù bản thân nó vẫn được ủng hộ, cũng đã dẫn đến áp lực của chính phủ đối với các phe đối lập chính trị.
Đáng chú ý, cũng chính trong năm Crimea được sáp nhập, nền kinh tế Nga bắt đầu trì trệ. Trong bối cảnh các lệnh trừng phạt của phương Tây và giá dầu sụt giảm liên tục, thu nhập thực tế của người Nga bắt đầu giảm trong 7 năm.
Trong tiếng Nga hiện đại, có một cách diễn đạt cho loại hành vi tự hủy hoại này: “Đánh bom Voronezh,” với “Voronezh” là cách viết tắt của một thành phố hạng trung điển hình của Nga gần Ukraine. Đẩy lùi bước tiến của NATO bằng một cuộc chiến khiến nhiều người Nga bị giết và làm xấu đi tình hình kinh tế và chính trị của những người Nga bình thường là một ví dụ hoàn hảo về thuật ngữ "ném bom Voronezh".
Cái giá của Putin
Hiện tại, vẫn chưa rõ liệu thái độ của công chúng có ảnh hưởng gì đến các hành động của Điện Kremlin ở Ukraine hay không. Trong những năm gần đây, bao gồm cả 6 tháng cuối năm 2021, xếp hạng tín nhiệm của Tổng thống Putin phần lớn không thay đổi với tỷ lệ 60%.
Dường như, nhà lãnh đạo 69 tuổi này bị thuyết phục rằng thứ nhất, đưa Ukraine trở lại tầm ảnh hưởng của Nga và biến nó thành một quốc gia vùng đệm là một mục tiêu có thể đạt được và thứ hai, tiến tới mục tiêu đó có thể duy trì và củng cố mức độ tín nhiệm cá nhân trong nước.
Cho đến nay, Putin đã thành công. Ông đã khiến thế giới luôn trong tình trạng căng thẳng và không chắc chắn, nhưng vẫn không làm suy yếu đáng kể mức độ ủng hộ của mình ở Nga.
Và hiện tại, không có phong trào có tổ chức nào ở Nga đứng ra phản đối chiến tranh. Nhưng điều đó có thể nhanh chóng thay đổi trong trường hợp xảy ra xung đột quân sự. Có một điều có vẻ rõ ràng: người Nga không sẵn sàng chịu trả giá cho một cuộc chiến.
Điện Kremlin luôn lo sợ về khả năng xảy ra "cuộc cách mạng màu" bên trong nước Nga, cho rằng nó sẽ đến từ những người chỉ trích chế độ theo chủ nghĩa tự do. Nhưng một mối đe dọa lớn hơn có thể đến từ những công dân bình thường, những người không hài lòng với tình hình kinh tế hiện tại.
Nếu ngày càng có nhiều người Nga tin rằng một cuộc chiến tranh hoặc viễn cảnh một cuộc chiến tranh gây ra mối đe dọa cho sinh kế của họ, thì sự ủng hộ đối với chính quyền có thể bị xói mòn.
Thực tế này có ảnh hưởng gì đến suy tính của Điện Kremlin hay không vẫn chưa chắc chắn. Tổng thống Putin có thể tính toán rõ ràng rằng lợi ích của việc tái khẳng định quyền lực của Nga lớn hơn bất kỳ chi phí chính trị nào. Nhưng nếu làm vậy, ông không chỉ có thể đẩy người Ukraine xa Nga hơn mà còn đẩy người dân Nga rời xa khỏi Điện Kremlin hơn nữa.
Bài viết thể hiện quan điểm của nhà báo Andrey Kolesnikov - Nghiên cứu viên cao cấp và Chủ nhiệm Chương trình Chính trị Nội địa và các Tổ chức Chính trị của Nga tại Trung tâm Carnegie Moscow.