Nói đến lĩnh vực truyền thông - báo chí, người ta không thể không nhắc đến Mỹ - một trong những quốc gia hàng đầu với hệ thống thông tin lớn nhất thế giới, với cách đưa tin chuyên nghiệp “kiểu Mỹ”.
* * *
Truyền thông Mỹ thậm chí còn định hướng thông tin không chỉ đối với công chúng trong nước mà cả khắp thế giới. Ở lĩnh vực truyền thông nào, Mỹ cũng có bước tiến dài và đáng ngưỡng mộ.
Ở Mỹ, ban đầu những tin tức được truyền đến dân cư địa phương thông qua báo in. Trong khi một số nơi thuộc địa có máy in và báo in thỉnh thoảng xuất hiện thì ở Boston với tỷ lệ biết chữ cao kết hợp với mong muốn tự trị của chính quyền đã biến Boston thành một địa điểm hoàn hảo để phát hành một tờ báo. Tờ báo in đầu tiên ra đời từ năm 1704. Cũng từ đó, báo chí lan truyền thông tin về các sự kiện và hoạt động địa phương.
Đến năm 1765, thuế trước bạ tăng lên khiến chi phí xuất bản tăng lên, việc in ấn bị ảnh hưởng. Nhưng chỉ sau 1 năm, việc bãi bỏ Thuế trước bạ vào năm 1766 đã làm dịu đi những lo ngại cho các nhà xuất bản. Nhiều biên tập viên và nhà văn đã sớm đặt câu hỏi về quyền của người Anh khi cai trị thuộc địa. Họ đặt câu hỏi báo chí phải làm gì để tham gia vào công tác thông tin đến người dân về những hành động sai trái của Anh, đồng thời kêu gọi người dân nổi dậy. Với những nội dung sát sườn với thực tế, lượng độc giả trên khắp các thuộc địa đã tăng lên gần bốn mươi nghìn người (trên tổng hai triệu người dân). Thời điểm đó, báo in phát hành khắp các thành phố lớn.
Năm 1780, việc xuất bản các tờ báo liên bang, cũng như các tờ báo chống liên bang tại Mỹ đã đưa quốc gia này vào kỷ nguyên báo chí của các đảng phái, trong đó sự trung thành của đảng phái và đảng chính trị chi phối nội dung biên tập. Phát hành và quảng cáo không đủ chi phí in ấn, và các đảng chính trị bước vào để hỗ trợ các báo chí hỗ trợ các bên và chính sách của họ. Các báo bắt đầu in tuyên truyền đảng và thậm chí công khai tấn công các nhà lãnh đạo chính trị như George Washington. Bất chấp sự đối nghịch của báo chí, Washington và một số nhà sáng lập khác cảm thấy rằng tự do báo chí là quan trọng để tạo ra một cuộc bầu cử có hiểu biết và tự do báo chí được ghi trong Tuyên ngôn Nhân quyền trong lần sửa đổi đầu tiên.
Từ năm 1830 đến 1860, máy móc hiện đại đã làm cho việc sản xuất báo nhanh hơn và ít tốn kém hơn. Ấn phẩm của Benjamin Day, New York Sun sử dụng công nghệ như máy in chữ để sản xuất hàng loạt. Đường bộ và đường thủy được mở rộng, giảm chi phí phân phối ấn phẩm cho các đầu báo. Báo mới xuất hiện. Các tờ báo và tạp chí penny phổ biến chứa nhiều tin đồn hơn tin tức, nhưng chúng có giá cả phải chăng ở mức một xu cho mỗi vấn đề. Theo thời gian, các bài báo đã mở rộng phạm vi của họ để bao gồm đua xe, thời tiết và tài liệu giáo dục. Đến năm 184, New York Tribune trở thành một tờ báo được cả nước biết đến.
Tuy nhiên độc giả Mỹ vẫn muốn được giải trí. Joseph Pulitzer và Thế giới New York đã chiếm lĩnh nội dung này chuyển tải đến bạn đọc. Các báo kiểu lá cải đẩy mạnh video và hình ảnh, trong khi các tin tức trên trang nhất là giật gân và tai tiếng. Phong cách này được Mỹ gọi là báo màu vàng. Quảng cáo được bán nhanh chóng nhờ sự phổ biến của tờ báo và phiên bản Sunday đã trở thành một ấn phẩm thường xuyên của tờ báo. Khi lượng phát hành của Thế giới New York tăng lên, các tờ báo khác sao chép phong cách của Pulitzer trong nỗ lực bán báo giấy. Cạnh tranh giữa các tờ báo dẫn đến các trang bìa ngày càng giật gân và thô thiển.
Năm 1896, Adolph Ochs mua tờ Thời báo New York với mục tiêu tạo ra một tờ báo nghiêm túc sẽ cung cấp cho độc giả những tin tức quan trọng về nền kinh tế, chính trị và thế giới thay vì tin đồn và truyện tranh. Thời báo New York đã mang lại mô hình thông tin, thể hiện sự vô tư và chính xác và thúc đẩy tính minh bạch trong chính phủ và chính trị. Thời kỳ này các quan chức chính quyền địa phương và tiểu bang đã tham gia hối lộ và tham nhũng đã trở thành tâm điểm của các bài báo.
Trong thế kỷ 21, các tờ báo đã phải vật lộn để ổn định tài chính. Truyền thông in ấn kiếm được 44,9 tỷ đô la từ quảng cáo trong năm 2003, nhưng chỉ có 16,4 tỷ đô la từ quảng cáo trong năm 2014.
Tin tức phát thanh xuất hiện vào những năm 1920. Công ty Phát thanh Quốc gia (NBC) và Hệ thống Phát thanh Columbia (CBS) bắt đầu chạy các chương trình tin tức và phim truyền hình được tài trợ. Các chương trình hài kịch, như Amos ‘Andy, Cuộc phiêu lưu của Gracie và Easy Aces, cũng trở nên phổ biến trong những năm 1930. Các chương trình trò chuyện, chương trình tôn giáo và các chương trình giáo dục được tiếp nối, và vào cuối những năm 1930, các chương trình trò chơi và chương trình đố vui đã được thêm vào sóng phát thanh. Gần 83 % hộ gia đình có một radio vào năm 1940.
Warren Harding là tổng thống đầu tiên thường xuyên có bài phát biểu qua đài phát thanh. Tổng thống Herbert Hoover cũng đã sử dụng đài phát thanh, chủ yếu để công bố các chương trình của chính phủ về viện trợ và cứu trợ thất nghiệp. Tuy nhiên, chính Franklin D. Roosevelt đã trở nên nổi tiếng vì khai thác sức mạnh chính trị của đài phát thanh. Khi vào văn phòng vào tháng 3 năm 1933, Tổng thống Roosevelt cần phải làm dịu đi những lo ngại của công chúng về nền kinh tế và ngăn chặn mọi người rút tiền của họ khỏi các ngân hàng. Ông đã có bài phát biểu đầu tiên trên đài phát thanh tám ngày sau khi đảm nhận nhiệm kỳ tổng thống.
Trong thời gian này, tin tức in vẫn kiểm soát phần lớn thông tin chảy đến công chúng. Chương trình tin tức vô tuyến bị giới hạn về phạm vi và số lượng. Nhưng vào những năm 1940, xung đột ở châu Âu và Thế chiến II đã thay đổi tin tức radio mãi mãi. Nhu cầu và mong muốn cập nhật tin tức thường xuyên về cuộc chiến không ngừng phát triển đã khiến các tờ báo, với việc in ấn một ngày là quá chậm. Mọi người muốn biết những gì đang xảy ra, và họ muốn biết ngay lập tức. Mặc dù ban đầu miễn cưỡng lên sóng, phóng viên Edward R. MurrowCBS bắt đầu tường thuật trực tiếp về hành động của Đức từ các bài đăng của mình ở Châu Âu. Báo cáo của ông chứa tin tức và một số bình luận, và thậm chí là tường thuật trực tiếp trong vụ đánh bom trên không London của Đức. Để bảo vệ các hoạt động quân sự bí mật trong chiến tranh, Nhà Trắng đã đưa ra các hướng dẫn về báo cáo thông tin mật, tạo một ngoại lệ pháp lý cho sự bảo vệ của Bản sửa đổi đầu tiên chống lại sự tham gia của chính phủ vào báo chí. Các nhà truyền thông tự nguyện đồng ý giữ kín thông tin, chẳng hạn như về sự phát triển của bom nguyên tử và các phong trào của quân đội, cho đến sau khi các sự kiện đã xảy ra.
Số lượng các đài phát thanh chuyên nghiệp và nghiệp dư tăng nhanh. Ban đầu, chính phủ ít kiểm soát lập pháp đối với ngành. Các đài đã chọn các địa điểm phát sóng, cường độ tín hiệu và tần số riêng, đôi khi trùng lặp với nhau hoặc với quân đội, dẫn đến các vấn đề điều chỉnh cho người nghe. Đạo luật Phát thanh (1927) đã tạo ra Ủy ban Phát thanh Liên bang (FRC), tổ chức này đã nỗ lực đầu tiên để thiết lập các tiêu chuẩn, tần số và trạm cấp phép. Ủy ban đã chịu áp lực nặng nề từ Quốc hội, tuy nhiên, và có ít thẩm quyền. Đạo luật Truyền thông năm 1934 đã chấm dứt FRC và thành lập Ủy ban Truyền thông Liên bang(FCC), công ty tiếp tục làm việc với các đài phát thanh để gán tần số và thiết lập các tiêu chuẩn quốc gia, cũng như giám sát các hình thức phát sóng và điện thoại khác. FCC quy định thông tin liên lạc giữa các tiểu bang cho đến ngày nay. Ví dụ, nó cấm sử dụng một số từ tục tĩu trong một số giờ nhất định trên sóng phát thanh công cộng.
Trước Thế chiến thứ 2, tần số vô tuyến được phát bằng cách sử dụng điều chế biên độ (AM). Sau WWII, phát sóng điều chế tần số (FM), với băng thông tín hiệu rộng hơn, cung cấp âm thanh rõ ràng với ít tĩnh hơn và trở nên phổ biến với các đài muốn phát các bài phát biểu hoặc âm nhạc với âm thanh chất lượng cao. Các đài bắt đầu đạt được vị thế vào những năm 1980 ở cả tần số AM và FM, khôi phục tầm quan trọng của radio trong chính trị.
Năm 1990, Đài phát thanh vệ tinh Sirius đã bắt đầu một chiến dịch phê duyệt cho đài phát thanh vệ tinh của FCC. Ý tưởng là phát chương trình kỹ thuật số từ các vệ tinh trên quỹ đạo, loại bỏ sự cần thiết của các tòa tháp địa phương. Đến năm 2001, hai trạm vệ tinh đã được phê duyệt để phát sóng. Đài phát thanh vệ tinh đã tăng chương trình rất nhiều với nhiều dịch vụ chuyên biệt, chẳng hạn như các kênh dành riêng cho các nghệ sĩ cụ thể. Nó thường dựa trên đăng ký và cung cấp một phạm vi lớn hơn, ngay cả đến các khu vực xa xôi như sa mạc và đại dương. Lập trình vệ tinh cũng được miễn trừ khỏi nhiều quy định của FCC chi phối các đài phát thanh thông thường.
Phát sóng chính thức đầu tiên tại Hoa Kỳ là bài phát biểu của Tổng thống Franklin Roosevelt tại lễ khai mạc Hội chợ Thế giới 1939 ở New York. Công chúng không mua tivingay lập tức, nhưng phạm vi của Thế chiến II đã thay đổi suy nghĩ của họ. CBS đã báo cáo về các sự kiện chiến tranh và bao gồm hình ảnh và bản đồ giúp tăng cường tin tức cho người xem. Vào những năm 1950, giá của các bộ truyền hình đã giảm, nhiều đài truyền hình được tạo ra và các nhà quảng cáo đã bắt đầu mua sóng.
Như trên đài phát thanh, chương trình đố vui và trò chơi thống trị sóng truyền hình. Nhưng khi Edward R. Murrow chuyển sang truyền hình vào năm 1951 với chương trình tin tức See It Now, báo chí truyền hình đã có chỗ đứng. Khi chương trình truyền hình mở rộng, nhiều kênh được thêm vào. Các mạng như ABC, CBS và NBC bắt đầu các bản tin hàng đêm, và các đài địa phương và các chi nhánh theo sau.
Truyền hình cũng cho phép các chính trị gia tiếp cận và kết nối với công dân và cử tri theo những cách sâu sắc hơn. Trước truyền hình, rất ít cử tri có thể thấy một tổng thống hoặc ứng cử viên nói hoặc trả lời các câu hỏi trong một cuộc phỏng vấn. Bây giờ mọi người có thể giải mã ngôn ngữ cơ thể và giọng điệu để quyết định xem ứng cử viên hay chính trị gia có chân thành hay không. Tổng thống có thể trực tiếp truyền đạt sự tức giận, buồn bã hoặc lạc quan của họ trong các địa chỉ.
Các quảng cáo truyền hình đầu tiên, được điều hành bởi các ứng cử viên tổng thống Dwight D. Eisenhower và Adlai Stevenson vào đầu những năm 1950, chủ yếu là các đoạn phát thanh với hoạt hình hoặc các phiên hỏi đáp ngắn. Năm 1960, chiến dịch của John F. Kennedy, đã sử dụng cách tiếp cận theo phong cách Hollywood để quảng bá hình ảnh của mình khi còn trẻ và sôi nổi. Chiến dịch Kennedy chạy các quảng cáo thú vị và hấp dẫn, có sự tham gia của Kennedy, vợ Jacqueline và những công dân hàng ngày ủng hộ ông.
Truyền hình cũng hữu ích để chống lại các vụ bê bối và cáo buộc không đúng đắn. Ứng cử viên phó tổng thống của đảng Cộng hòa Richard Nixon đã sử dụng một bài phát biểu trên truyền hình vào năm 1952 để giải quyết các cáo buộc rằng ông đã lấy tiền từ một quỹ chiến dịch chính trị bất hợp pháp. Nixon đặt ra tài chính, đầu tư và các khoản nợ của mình và kết thúc bằng cách nói rằng món quà bầu cử duy nhất mà gia đình nhận được là một con gà trống mà những đứa trẻ tên là Checkers…
Giữa những năm 1960 và 1990, các tổng thống thường sử dụng truyền hình để tiếp cận công dân và giành được sự ủng hộ cho các chính sách. Khi họ phát biểu, các mạng lưới và các chi nhánh địa phương đã thực hiện chúng. Với một vài đài địa phương độc lập có sẵn, một người xem có rất ít sự thay thế để xem. Trong thời đại hoàng kim của đài truyền hình tổng thống này, các vị tổng thống có một chỉ huy mạnh mẽ của giới truyền thông.
Việc phát minh ra cáp vào những năm 1980 và mở rộng Internet vào những năm 2000 đã mở ra nhiều lựa chọn cho người tiêu dùng truyền thông hơn bao giờ hết. Người xem có thể xem gần như có mọi thứ chỉ bằng một nút bấm, bỏ qua quảng cáo và ghi lại các chương trình quan tâm. Kết quả bão hòa, hoặc ngập thông tin, có thể khiến người xem từ bỏ hoàn toàn tin tức hoặc trở nên nghi ngờ và mệt mỏi hơn về chính trị.
Hiệu ứng này cũng thay đổi khả năng tiếp cận với công dân. Ví dụ, lượng người xem địa chỉ Liên bang hàng năm của tổng thống đã giảm trong những năm qua, từ sáu mươi bảy triệu người xem vào năm 1993 xuống còn ba mươi hai triệu trong năm 2015.
Công dân muốn xem truyền hình thực tế và phim ảnh có thể dễ dàng tránh được tin tức, khiến các tổng thống không có cách nào chắc chắn để giao tiếp với công chúng.
Tính khả dụng của Internet và phương tiện truyền thông xã hội đã giúp các chính trị gia bây giờ có thể kết nối trực tiếp với người dân, bỏ qua các nhà báo. Khi Bộ trưởng của Barack Obama, Reverend Jeremiah Wright, bị buộc tội thực hiện các bài phát biểu phân biệt chủng tộc trong năm 2008, Obama đã sử dụng YouTube để đáp lại những cáo buộc mà ông chia sẻ niềm tin của Wright. Video đã thu hút hơn bảy triệu lượt xem. Để tiếp cận với những người ủng hộ và cử tri, Nhà Trắng duy trì một kênh YouTube và một trang Facebook, giống như Chủ tịch Hạ viện Cộng hòa gần đây, John Boehner.
Phương tiện truyền thông xã hội, như Facebook, cũng đặt báo chí vào tay công dân: báo chí công dân xảy ra khi công dân sử dụng thiết bị ghi âm cá nhân và điện thoại di động để ghi lại các sự kiện và đăng chúng lên Internet. Năm 2012, các nhà báo công dân đã bắt gặp cả hai ứng cử viên tổng thống một cách bất ngờ. Mitt Romney đã được ghi lại bởi máy ảnh cá nhân của một nhân viên pha chế nói rằng 47% người Mỹ sẽ bỏ phiếu cho Tổng thống Obama vì họ phụ thuộc vào chính phủ. Thời nay, mỗi người dân có thể trở thành “nhà báo” khi có công nghệ trong tay.