Chính sách thuế nhằm hạn chế sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm gây nguy hại đối với môi trường theo đánh giá chưa phù hợp thực tiễn. Số thu từ các sắc thuế này cũng bị cho là chưa tương xứng với những tổn hại do sản xuất, tiêu dùng gây ra.
Đó là những vấn đề được nêu lên trong báo cáo "Sử dụng công cụ chính sách thuế nhằm điều tiết nền kinh tế hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững ở Việt Nam" vừa được công bố ngày 11/3. Báo cáo do Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương thực hiện.
Áp dụng cả thuế tuyệt đối và phần trăm?
Ông Nguyễn Mạnh Hải - Trưởng nhóm nghiên cứu Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương thống kê, Việt Nam đã có chính sách thuế bảo vệ môi trường với đối tượng chịu thuế là xăng, dầu, mỡ nhờn, túi nilon, thuốc diệt cỏ, than đá,...
Tuy vậy mức thuế môi trường của Việt Nam năm 2014 mới khoảng 0,31% GDP. Tỷ lệ này cao hơn Malaysia (0,24%) và Philippines (0,21%). Tuy nhiên, tỷ lệ thu này thấp nhiều nếu so với Ấn Độ (0,95% GDP), Trung Quốc (1,33% GDP), Nhật Bản (1,48% GDP), Hàn Quốc (2,54% GDP),...
Để hạn chế nguy hại đối với môi trường, Việt Nam hiện cũng có quy định, xe ôtô dưới 24 chỗ ngồi, xe môtô trên 125cm3 xăng các loại thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Đối với xe ôtô dưới 24 chỗ ngồi, loại xe có dung tích xilanh càng lớn thì mức thuế suất càng cao.
Ngoài ra, nước ta hiện cũng có phí bảo vệ môi trường với khai thác khoáng sản, nước thải, chất thải rắn.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể, theo ông, chính sách thuế nhằm hạn chế sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm gây nguy hại đối với môi trường chưa phù hợp thực tiễn.
Để khuyến khích sản xuất, tiêu dùng xanh, tăng trưởng bền vững, theo ông, cần quy định mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xăng sinh học bằng 50% của mức thuế xăng khoáng. Điều này nhằm tạo sự chênh lệch đáng kể giữa xăng sinh học và xăng khoáng.
Với thuế bảo vệ môi trường, theo vị này, cần tăng mức thu đồng thời áp dụng kết hợp mức thu tuyệt đối và mức thuế suất theo tỷ lệ phần trăm. Việc cần làm nữa theo ông là mở rộng phạm vi đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường để bao quát hết các sản phẩm gây tổn hại đối với môi trường như: phân bón hóa học; khí thải.
Ở hướng khác, ông cho rằng, cần hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cả về mức ưu đãi và thời gian ưu đãi nhằm thu hút có chọn lọc đầu tư vào phát triển ngành, lĩnh vực công nghệ cao, sử dụng công nghệ thân thiện với môi trường.
Cần soi vào thực tế Việt Nam
Tuy nhiên, bà Đặng Thị Thu Hoài, Thư ký Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ thì cảnh báo, việc tăng cái mức thuế có thể ảnh hưởng tới chi phí sản xuất, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bà cũng tỏ ra lo lắng về xăng, dầu, mặt hàng ai cũng phải sử dụng, bao gồm cả người nghèo. Nếu tăng thuế, việc này theo bà có thể tác động tới việc phân phối thu nhập.
"Các nước phát triển, họ có điều kiện về kinh tế, có hệ thống phúc lợi xã hội hoàn thiện nên có điều kiện để áp dụng các chính sách thuế dễ dàng hơn. Ta học hỏi kinh nghiệm thế giới nhưng cần soi vào thực tế Việt Nam," bà Hoài lên tiếng.
Còn bà Nguyễn Thị Tuệ Anh, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thì nêu quan điểm, trong tăng trưởng xanh, phát triển bền vững thì thuế chỉ là một công cụ.
Bà đặt nghi vấn, "nếu chỉ chăm chăm vào chính sách thuế có được không hay phải kết hợp thêm chính sách nào nữa?"
Ngoài thuế, theo bà, có thể cần thêm những chính sách khác như tín dụng xanh, để có sự liên kết.