“Đêm đông chí uống rượu với bác Lâm, bác Khánh, nói về những cuộc chia tay thời loạn”, có đoạn: “Thương nhà thương nước thương cho bạn?/ Không khóc mà sao cổ nghẹn ngào/ Ba đứa da vàng ngồi uống rượu/ Mặt buồn như sỏi dưới hang sâu/ Chúng mình không có bom nguyên tử/ Chỉ có thuốc lào hút với nhau…”.
Thi sĩ Nguyễn Lâm (ảnh: Lý Đợi) |
“Bác Lâm” có tên khai sinh là Nguyễn Đình Lâm, sinh 10/8/1943 tại Hà Nội và mất năm 2005 tại TP.HCM sau sinh nhật của ông 2 hôm trong một ngày trời mưa gió dầm dề ở căn nhà gần ngã tư Hàng Xanh, quận Bình Thạnh. Khi đó “bác Lâm” sống một mình, nên ngày hôm sau người thân mới biết ông đã ra đi. Bạn bè văn nghệ hay gọi ông là Lâm Rùa, Lâm Râu hay Lâm Man, còn ông dùng bút danh chính là Nguyễn Lâm dù thơ ông rất ít khi đăng báo.
Vào năm 2008, nhà văn Nguyễn Khắc Phục đã thu thập bản thảo của Nguyễn Lâm, biên tập và đặt tên tập thơ là “Kịch đời” cho ông, gồm 3 phần: Lều cỏ; Vách sương; Đường gió với mỗi phần 36 bài, mỗi bài được đặt tựa bằng hai từ. Tập thơ này đã được NXB Sân khấu cấp phép ấn hành, hình bìa chân dung Nguyễn Lâm do danh họa Bùi Xuân Phái vẽ và phụ bản chân dung Nguyễn Lâm do cố họa sĩ Việt Hải vẽ.
Những năm cuối đời của Lâm Râu, các nhà thơ Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khắc Phục... đã đi xin phép ít nhất hai NXB nhưng đều bị từ chối in thơ Lâm Man. Thơ Nguyễn Lâm có gì mà khó khăn trong xuất bản đến vậy? Cái khó đầu tiên là thơ ông ít công bố, Lâm Râu chỉ viết để đọc cho bạn bè nghe chứ không cần sự chia sẻ của số đông vì ông biết ít người hiểu được.
Nhận xét về thơ Nguyễn Lâm, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã viết vào ngày 4/9/2005: “Thơ Lâm nói về dòng sông mà chỉ hướng sự quan tâm đến mấy con vờ trên mặt nước, đến những cánh bèo, chứ không hề quan tâm đến dòng chảy... Thơ Lâm nói về cánh rừng mà không nói gì đến đinh, lim, sến, táu mà quan tâm rất nhiều đến cỏ, đến những con vật xinh xắn nhưng quá bé bỏng sống khuất lấp trong cây. Thơ Lâm nhiều quán cóc mà ít nhà hàng. Thơ Lâm có nhiều cuộc đời nhưng rất ít cuộc đời đặc biệt... Thơ Lâm được sáng tác chủ yếu ở trạng thái nhắm mắt (nội quan), dù trong thơ vô vàn chi tiết thu được từ sự quan sát...”.
Còn nhà văn Nguyễn Khắc Phục đánh giá thơ Nguyễn Lâm như một dạng đồng dao nhưng hiện ra: “... lổng chổng, câu cú chữ nghĩa chủng chẳng, rời rã. Cấu tứ xiêu vẹo, lệch đổ. Giọng điệu lắm lúc giả ngô giả ngọng. Lại có khi đột ngột ngắt câu, chuyển ý tùy tiện, mê hoảng... Có người nói đọc thơ Lâm Man nghe như có tiếng nấc ở trong, mà là nấc cụt”.
Theo nhà văn Nguyễn Khắc Phục, muốn đồng cảm được với thơ Nguyễn Lâm thì phải đọc chậm lại, ít nhất cũng chậm bằng tốc độ đi bộ của thi sĩ Lâm Rùa. Thế nhưng chúng ta đang sống trong thời buổi chụp giật, vội vàng này thì làm gì có thời gian để gặm nhấm thơ thẩn, nhất là với kiểu thơ Nguyễn Lâm?!
Tập thơ Kịch đời của Nguyễn Lâm được nhà văn Nguyễn Khắc Phục tập hợp bản thảo xuất bản năm 2008 |
Thơ Nguyễn Lâm
Tha hương
kẻ không nhà
đáo chốn lao xao
tìm chân mi tên mùa
mềm dáng
dung dăng nhịp về
cười như mưa
vai trần tầm tã
ngón tay bủa dài
chân dài thả cặp
trăng nhom tét má
ngâu cơn đợi
từng nhịp vai van vỉ
não vòng tay
gió vênh trong tóc
men xanh không định số
mấy chìm cho qua
trong như đục ửng môi
mưa trong mắt
trong veo ly sóng
vo dung nhan
mắt trong lá
và lá
và mưa
Sinh thời “bác Lâm” sống thế nào mà được các bậc tài danh trong làng văn nghệ yêu quý như vậy? Những năm còn chiến tranh, căn gác nhỏ của Nguyễn Lâm trên phố Triệu Việt Vương – Hà Nội là nơi sinh hoạt văn nghệ của những tài danh sau này: Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Hiền, Đỗ Chu, Nguyễn Khắc Phục, Phạm Tiến Duật, NSND Trọng Khôi, Lâm Quang Ngọc, Vũ Ân Thi, Doãn Châu, Hoàng Hưng, Vương Trí Nhàn, Nghiêm Đa Văn, Đào Trọng Khánh... Và trong ngôi nhà của mình, Nguyễn Lâm trở thành “mạnh thường quân” của giới văn nghệ trẻ lúc đó. Nguyễn Lâm làm “mạnh thường quân” cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, ông chẳng những lo lắng về vật chất mà còn “chịu đựng” cả những vui buồn từ bè bạn mang đến. Nói đúng hơn, Lâm Man bị văn chương “hành” đến suốt cuộc đời.
Nguyễn Lâm đang học ĐH Bách khoa Hà Nội thì bỏ nửa chừng để làm công nhân nhà máy dệt 8/3. Ông bỏ học như thế vì thần tượng lớn nhất của ông là nhà văn Macxim Gocki, với tác phẩm gối đầu giường “Trường đại học của tôi”. Những đồng lương công nhân có được cũng như nhuận bút các bài báo dịch, Nguyễn Lâm đều dành cho bè bạn. Ông cũng là tấm gương tự học không ngừng, thời ấy, Nguyễn Lâm đã tự học tiếng Nga, Pháp để dịch báo và sách văn học. Có thể nói, trong lứa bạn bè kể trên của Nguyễn Lâm, thì họ biết được những tác giả như Lorca, Whitman... là nhờ ông. Nguyễn Lâm làm một nhịp trong chiếc cầu nối tri thức nước ngoài với bạn bè cầm bút tại Hà Nội một thời.
Lưu Quang Vũ và Nguyễn Lâm có lẽ là hai người bạn thân thiết nhất của nhau lúc ấy. Trong “Cây bút đời người” (NXB Trẻ 2002), nhà phê bình Vương Trí Nhàn viết về Lưu Quang Vũ: “Những lúc vui, Vũ đi những đâu đâu, khi buồn quá, lại trở về với Lâm. Lâm có thể nghe Vũ kể đủ chuyện, có thể nghe Vũ chửi bới kêu than, lại có thể lặng đi chờ đợi khi Vũ đờ đẫn không nói gì... Bao nhiêu ngang ngược của Vũ, Lâm chịu được hết. Trong những năm tháng tả tơi của Vũ, Lâm là hiện thân của sự chứa chấp thông cảm mà Vũ khao khát, nhưng lại thường tự đánh mất”.
Bạn bè của Nguyễn Lâm cho rằng sự thăng hoa trong sáng tạo của Lưu Quang Vũ hay của chính họ, không thể thiếu vắng hình bóng của Nguyễn Lâm. Sau ngày đất nước thống nhất, Nguyễn Lâm vào TP.HCM làm ở Đài Tiếng nói Việt Nam, rồi các báo Sân khấu, Thể thao TP.HCM... và mưu sinh bằng nghề dịch thuật. Trong căn nhà bừa bộn sách, báo của ông gần ngã tư Hàng Xanh luôn hiện diện sự hiếu khách, thương bạn văn nghệ và tinh thần phóng khoáng dù lúc này ông khá nghèo so với chúng bạn cùng thời; mà xưa nay chỉ kiếm sống bằng nghề viết văn, viết báo thì có mấy người xông xênh về tiền bạc?!
Thơ Nguyễn Lâm
trần nữtóc ướt vành trăng
mưa xanh vòm sóng
trưa tàn mũ đen
mím cười áo trắng
mắt chớp một phương
người đi sương vàng
thửa nào búp vắng
lá biếc hoa giăng
Lúng liếngai đem người ngọc
trèo lên quán dốc
tựa gốc cây đa
thu đông xuân hạ
vào ra lẫn bóng hoàng hôn
lới lơ
lơ lới
bên nay bỏ gối
đốt sạch lá đời
cho ta thành nắng
lung liêng
lúng liếng má em