Đây là chủ trương lớn, mang ý nghĩa chiến lược, thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước về ưu tiên phát triển khu vực nông thôn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thu hẹp khoảng cách vùng miền và bảo đảm cơ hội phát triển đồng đều cho mọi người dân.
Cần thiết kế rõ ràng cấu trúc từng hợp phần
Đại biểu Cầm Hà Chung (Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Thọ) đồng tình với chủ trương tích hợp ba lĩnh vực lớn là: Xây dựng nông thôn mới; giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nhằm tạo tính đồng bộ, tránh trùng lặp, tăng hiệu quả sử dụng ngân sách.
Tuy nhiên, đối chiếu với thực tiễn triển khai giai đoạn 2021 - 2025, nếu không thiết kế rõ ràng cấu trúc từng hợp phần thì rất dễ làm “mờ” tính đặc thù của hợp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Hợp phần này là sự tiếp nối, triển khai của hơn 118 chính sách với 10 dự án thành phần trong giai đoạn trước, đối tượng thụ hưởng, cơ chế tài chính, phương thức hỗ trợ, mục tiêu ưu tiên và phương pháp tổ chức rất khác với 2 lĩnh vực còn lại.
Do đó, việc “gộp” mà không làm rõ cấu trúc sẽ gây khó khăn trong phân bổ nguồn lực, xác định trách nhiệm chủ trì, kiểm tra - giám sát và đặc biệt là giải ngân vốn đầu tư; giải quyết các vấn đề đặc thù của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nhiều khó khăn mang tính lịch sử, tồn tại kéo dài qua nhiều thế hệ; nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số còn gặp thách thức về đất ở, đất sản xuất, sinh kế, nhà ở, nước sạch, văn hóa truyền thống và an ninh khu vực biên giới.
Do vậy, đại biểu Cầm Hà Chung đề nghị mục tiêu tổng quát tại khoản a, mục 1, Điều 1 liên quan đến hợp phần này nên diễn đạt theo hướng: "Phát triển toàn diện khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, bảo đảm tính đặc thù, có mục tiêu, nhiệm vụ, tiêu chí và cơ chế tổ chức thực hiện phù hợp; giải quyết căn cơ, toàn diện những khó khăn lịch sử và các “lõi nghèo”, “lõi khó khăn” tồn tại kéo dài tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; thu hẹp chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, nhóm dân cư, nhất là vùng dân tộc thiểu số và miền núi so với vùng khác; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc thiểu số".
"Bổ sung này sẽ giúp Chương trình giữ được tính tích hợp nhưng vẫn bảo đảm sự tập trung, phù hợp đặc thù đối tượng và phù hợp với kinh nghiệm trong triển khai các chương trình mục tiêu hướng tới nhóm yếu thế thời gian qua. Đồng thời, sẽ tạo định hướng rõ ràng hơn cho cơ quan chủ trì, các địa phương và lực lượng tổ chức thực hiện Chương trình”, đại biểu Cầm Hà Chung (Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Thọ) phát biểu.
Để Nghị quyết khi ban hành vừa bảo đảm tính khả thi, vừa tạo ra động lực phát triển thực chất, góp ý về quy định mục tiêu cụ thể tại Khoản 1 Điều 1, đại biểu Đỗ Văn Yên – Đoàn ĐBQH TP Hồ Chí Minh đồng tình với nhóm mục tiêu hướng tới xây dựng nông thôn mới hiện đại, giảm nghèo đa chiều và nâng cao đời sống người dân. Tuy nhiên,đại biểu Đỗ Văn Yên đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung chỉ tiêu đo lường về “tỷ lệ người dân tiếp cận dịch vụ số và hạ tầng số tại nông thôn và vùng dân tộc thiểu số” nhằm phù hợp với định hướng chuyển đổi số quốc gia. Việc bổ sung chỉ tiêu này sẽ bảo đảm mục tiêu phát triển không chỉ tập trung vào hạ tầng vật chất mà còn ưu tiên hạ tầng số - yếu tố quyết định trong nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo việc làm mới và kết nối thị trường cho khu vực nông thôn và miền núi, từ đó tăng tính bền vững của thoát nghèo và tăng thu nhập của người dân.
Cần bố trí ngân sách nhà nước và cơ cấu phân cấp vốn phù hợp
Về kinh phí thực hiện tại Khoản 3 Điều 1, đại biểu Đỗ Văn Yên đồng ý với tổng mức bố trí ngân sách nhà nước và cơ cấu phân cấp vốn giữa trung ương và địa phương. Tuy nhiên, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bổ sung cơ chế “bảo toàn vốn đầu tư phát triển cho hạ tầng thiết yếu” đối với các địa phương có tỷ lệ hộ nghèo cao và ngân sách còn khó khăn. Lý do là nếu không có cơ chế bảo toàn vốn, một số địa phương có thể phải điều tiết sang nhiệm vụ chi cấp bách khác, dẫn đến đầu tư hạ tầng bị gián đoạn, kéo dài thời gian hoàn thành mục tiêu nông thôn mới. Việc bảo toàn vốn đầu tư cho hạ tầng thiết yếu sẽ giúp bảo đảm tính nhất quán trong thực thi và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách.
Về nguyên tắc phân bổ vốn ngân sách trung ương tại Khoản 4 Điều 1, ĐBQH TP Hồ Chí Minh Đỗ Văn Yên đánh giá cao nguyên tắc ưu tiên vùng đặc biệt khó khăn và vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, để phù hợp thực tiễn, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung tiêu chí phân bổ theo “mức độ hoàn thành mục tiêu và hiệu quả giải ngân giai đoạn trước”. Việc gắn phân bổ vốn với hiệu quả thực thi sẽ tạo động lực mạnh mẽ đối với các địa phương trong công tác điều hành, đồng thời giảm tình trạng vốn chậm giải ngân hoặc đầu tư dàn trải, từ đó thúc đẩy tiến độ và nâng cao hiệu quả chương trình.
Đồng quan điểm này, đại biểu Cầm Hà Chung (Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Thọ), hoàn toàn đồng tình với nguyên tắc này. Tuy nhiên, nếu không quy định rõ cơ cấu phân bổ theo từng hợp phần thì việc thực hiện sẽ gặp khó khăn, đặc biệt với hợp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nơi mà đa số địa phương không có khả năng cân đối ngân sách và rất khó đáp ứng yêu cầu vốn đối ứng. Vì vậy, tôi đề nghị bổ sung vào khoản 4 Điều 1 "Nguyên tắc phân bổ vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ thực hiện Chương trình" nội dung sau: “Cơ cấu vốn ngân sách trung ương và ngân sách địa phương được xác định theo từng hợp phần của Chương trình. Trong đó, đối với hợp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, ngân sách Trung ương giữ vai trò quyết định”.
Về cơ chế tổ chức thực hiện Chương trình tại Khoản 5 Điều 1, đại biểu đồng thuận với việc thành lập Ban Chỉ đạo chung nhằm tránh trùng lặp và bảo đảm điều phối tập trung. Tuy nhiên, đề nghị bổ sung cơ chế “cắt giảm thủ tục hành chính đối với các dự án quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản có sự tham gia giám sát của cộng đồng”. Thực tế cho thấy nhiều dự án nhỏ tại nông thôn và vùng dân tộc thiểu số đang gặp khó khăn do quy trình thẩm định phức tạp và kéo dài, làm chậm hiệu quả thụ hưởng của người dân. Cơ chế cải cách thủ tục có kiểm soát sẽ giảm chi phí thời gian, đồng thời nâng cao trách nhiệm giải trình thông qua giám sát cộng đồng.
Về nhiệm vụ giao Chính phủ tại Khoản 1 Điều 2, ĐBQH Đỗ Văn Yên nhất trí với nhiệm vụ rà soát, sửa đổi và ban hành các cơ chế đặc thù. Tuy nhiên, để bảo đảm cam kết đồng hành hỗ trợ địa phương trong dài hạn, đề nghị bổ sung quy định “xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chung phục vụ theo dõi kết quả thực hiện Chương trình trên phạm vi toàn quốc”, tích hợp chỉ tiêu về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo đa chiều và phát triển vùng dân tộc thiểu số. Cơ sở dữ liệu thống nhất sẽ giúp nâng cao tính minh bạch, hỗ trợ giám sát hiệu quả và phục vụ hoạch định chính sách điều chỉnh kịp thời theo biến động thực tế.
Chương trình mục tiêu quốc gia lần này có phạm vi rộng, thời gian thực hiện dài và gắn với nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, do đó cần phải bảo đảm tính khả thi, đồng bộ và hiệu quả, thật sự đi vào cuộc sống để nâng cao thu nhập, chất lượng sống và cơ hội phát triển cho người dân nông thôn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tạo nền tảng vững chắc cho phát triển đất nước trong giai đoạn mới.