Chuyển đổi số bắt đầu từ nền tảng công dân số

(Ngày Nay) - Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh chuyển đổi số, việc đào tạo công dân số trở thành yếu tố then chốt.
TS Lê Nguyễn Trường Giang, Viện trưởng Viện Chiến lược Chuyển đổi số (DTSI).
TS Lê Nguyễn Trường Giang, Viện trưởng Viện Chiến lược Chuyển đổi số (DTSI).

PV Ngày Nay đã có cuộc trao đổi với TS Lê Nguyễn Trường Giang, Viện trưởng Viện Chiến lược Chuyển đổi số (DTSI) về những vấn đề xoay quanh việc đào tạo công dân số: những kỹ năng cần trang bị, giải pháp thu hẹp khoảng cách số và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

Để người dân thực sự hiểu “số” (Digital) là gì?

PV: Thưa TS Lê Nguyễn Trường Giang, đào tạo công dân số đóng vai trò như thế nào trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực vươn mình trong kỷ nguyên số?

TS Lê Nguyễn Trường Giang: Tiến trình chuyển đổi số có ba trụ cột: Chính phủ số, Kinh tế số, Xã hội số, trong đó công dân số chính là nền tảng cho cả ba trụ cột này, đặc biệt là trụ cột Xã hội số. Công dân số được định hình bởi ba yếu tố: số hóa dữ liệu công dân; định danh công dân từ dữ liệu đã được số hóa gắn kết với thể chế liên quan; và cuối cùng là thực hiện các hoạt động xác định danh tính của công dân trong các giao dịch dựa trên dữ liệu và định danh công dân. Để thúc đẩy sự hình thành Công dân số, chúng ta phải triển khai đồng thời giữa việc tuyên truyền, giáo dục với việc thực hiện các yêu cầu bắt buộc trong việc tham gia vào các hoạt động chuyển đổi số.

Đề án 06 với việc xây dựng dữ liệu dân cư làm trung tâm là một hoạt động bắt buộc trong việc xây dựng nền tảng cho Công dân số. Tuy nhiên, để đề án có thể thực hiện hiệu quả, công dân thực sự tham gia vào các tiến trình dữ liệu, sử dụng hiệu quả các ứng dụng liên quan... chúng ta cần tuyên truyền, giáo dục, đào tạo các công dân để trở thành Công dân số. Đồng thời, việc này cũng quan trọng cho vấn đề công dân có khả năng thích ứng trước những thách thức đe dọa về an ninh thông tin, an toàn mạng, trước các tình trạng lừa đảo trực tuyến, đảm bảo bảo mật trong tham gia các giao dịch xác thực...

Theo ông, những kiến thức và kỹ năng nào về dữ liệu số cần trang bị cho công dân, để giúp họ tiếp cận cũng như sử dụng hiệu quả các tiện ích số, đồng thời đảm bảo an toàn và bảo mật thông tin cá nhân?

Trước hết cần phải đào tạo để người dân thực sự hiểu “Số” (Digital) là gì, theo đó là hiểu “Tư duy số” (digital thinking), từ đó định hình và nắm bắt được việc xây dựng dữ liệu số cho mình cần gì, nên làm gì, làm như thế nào, và để làm gì. Khi biết rõ, nắm chắc, hiểu sâu được bản chất của số, tiến trình số hóa và hình thành công dân số, từ đó mới có thể định hướng những hành động đúng đắn đối với Công dân số được.

Tiếp đó, việc đào tạo năng lực số để công dân có thể tham gia vào các tiến trình chuyển đổi số một cách hiệu quả, hình thành nên xã hội số cũng cần phải được chú trọng, đặt tiền đề và làm môi trường cho sự phát triển của kinh tế số và chính phủ số. Cuối cùng, là việc đào tạo cho công dân năng lực học tập liên tục và học tập suốt đời để có khả năng thích ứng hiệu quả và tự bù lấp những lỗ hổng năng lực, đáp ứng và thích nghi hiệu quả với những tiến bộ xã hội không ngừng của kỷ nguyên số.

Chuyển đổi số bắt đầu từ nền tảng công dân số ảnh 1

Phường An Khê (Đà Nẵng) thực hiện mô hình điểm về xây dựng bộ nhận diện thương hiệu tại bộ phận một cửa

Hiện nay, khoảng cách về trình độ công nghệ số giữa các vùng miền và tầng lớp dân cư ở Việt Nam vẫn còn khá lớn. Xin ông cho biết cần có những giải pháp để thu hẹp khoảng cách này, đảm bảo mọi công dân đều có cơ hội tiếp cận và hưởng lợi từ quá trình chuyển đổi số?

Khoảng cách chênh lệch là một vấn đề không thể xóa được và cũng không thể đặt vấn đề thu hẹp theo nghĩa cơ học. Đây là một vấn đề vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan. Nhìn từ góc độ khách quan, do môi trường phát triển khác nhau, yêu cầu về những điều kiện sống khác nhau, môi trường tiếp xúc với khoa học, công nghệ khác nhau, các yếu tố đời sống khác nhau khiến cho khoảng cách chênh lệch công nghệ là một tồn tại tất yếu. Nhìn từ góc độ chủ quan, những hạn chế về điều kiện môi trường, xã hội, tình trạng thu nhập, khả năng tiếp cận tri thức và trình độ cũng là những nguyên nhân tạo nên tình trạng chênh lệch không thể tránh khỏi giữa các vùng miền.

Như vậy, giảm thiểu khoảng cách chênh lệch để gia tăng cơ hội tiếp cận các lợi ích mà tiến trình chuyển đổi số đưa đến cũng phải được nhìn nhận từ hai góc độ, từ đó đưa ra được những giải pháp phù hợp. Từ góc độ khách quan, giảm thiểu khoảng cách chênh lệch không phải là làm cho các vùng miền đều “giống nhau”, mà cần nỗ lực làm sao cho sự phát triển của các vùng miền trở nên tiệm cận được những mức độ phát triển phù hợp dựa trên các điều kiện hiện có ở những tốc độ phát triển tương đồng nhau, có khả năng kết nối, hỗ trợ và tương trợ, tương tác với nhau một cách hiệu quả. Từ góc độ chủ quan, việc bù lấp những bất bình đẳng xã hội, khả năng tiếp cận tri thức chính là những giải pháp quan trọng để giảm thiểu những bất lợi thế mà các khu vực kém phát triển hơn chưa tiếp cận được.

Thay đổi cách tư duy về giáo dục, đào tạo

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển như vũ bão, việc cập nhật và nâng cao kiến thức, kỹ năng số là một quá trình liên tục. Theo anh, cần có những mô hình đào tạo và học tập nào để giúp công dân Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của thời đại, đặc biệt là những công dân trẻ?

Trước hết, cần phải hiểu bản chất của mọi vấn đề, sự phát triển càng tiến triển nhanh, càng được cập nhật liên tục, thì ta càng không thể học kỹ năng, đi theo xu hướng, và “hời hợt trên ngọn” được. Muốn đối đầu với những thách thức này, thích nghi hiệu quả và tồn tại bền vững, chúng ta cần thay đổi tư duy từ tiếp cận kỹ năng sang hình thành năng lực. Các công dân cần đi vào học hỏi theo cách tìm tòi bản chất của vấn đề, những nguyên lý cơ bản, học cách tư duy hệ thống để có thể hiểu được bản nguyên của những tiến bộ đó, hiểu được căn nguyên và công nghệ số sẽ diễn tiến như thế nào. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể “định tâm giữa muôn vàn biến đổi liên tục với tốc độ, mật độ và hàm lượng cao” như hiện nay về dữ liệu, thông tin và tri thức.

Thứ hai, mỗi người cần xác định được cho mình một thế mạnh để làm cốt lõi mà dựa trên đó định hình bản sắc để phát triển một cách phù hợp. Chỉ khi xác định được thế mạnh và bản sắc, mỗi công dân mới có khả năng phát triển một cách độc lập, chủ động và có định hướng. Nếu cứ thay đổi liên tục theo xu hướng này, khuynh hướng nọ chúng ta sẽ chỉ luôn là một chủ thể thụ động, bị thao túng, bị phụ thuộc và liên tục phải nâng cấp, hay làm mới mà vẫn khó có thể thích ứng một cách hiệu quả với các đòi hỏi của thời cuộc.

Chuyển đổi số bắt đầu từ nền tảng công dân số ảnh 2

Một tiết giáo dục kỹ năng công dân số cho học sinh tiểu học tại TP HCM

Nhu cầu về nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao ngày càng tăng, đặc biệt là trong các lĩnh vực mới nổi như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và an ninh mạng. Theo anh, những giải pháp đột phá nào cần được triển khai để đảm bảo nguồn cung nhân lực này đáp ứng kịp thời và hiệu quả cho sự phát triển của ngành công nghệ thông tin Việt Nam?

Cần nhìn nhận rõ rằng nếu chúng ta muốn nguồn nhân lực đạt chất lượng cao thì phải thay đổi cách tư duy về giáo dục, đào tạo và giá trị của việc đào tạo. Trước hết, muốn tham gia vào các lĩnh vực công nghệ cao, chúng ta không thể đào tạo “thợ” như chúng ta vẫn đang tập trung chủ yếu đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng hiện nay. Hơn lúc nào hết, cần phải học cách làm chủ các kiến thức cơ bản, nền tảng, mang tính nguyên lý, căn cốt của mỗi ngành. Chỉ khi đó, sinh viên mới có thể học nhanh, thay đổi liên tục và chủ động tư duy trong việc tiếp cận các công nghệ mới, những thay đổi, chuyển dịch, nâng cấp và chuyển hóa của công nghệ.

Thứ hai, giáo dục do vậy cũng phải chuyển đổi từ việc hướng bằng cấp, hướng kỹ năng, sang hướng năng lực và học tập liên tục, suốt đời. Người học dưới mái trường cần tập trung vào việc xây dựng những năng lực nền tảng, năng lực tư duy để có thể từ tiếp thụ tri chức sang chuyển hóa tri thức hiệu quả. Theo đó, quá trình công tác tiếp theo sẽ không ngừng chuyển hóa hiệu quả tri thức dựa trên các năng lực đã có, liên tiếp được nâng cấp, mở rộng nhờ việc học tập liên tục, suốt đời, lấy thích nghi hiệu quả với các đòi hỏi của môi trường thực tiễn, xu thế và trình độ phát triển của quốc gia và quốc tế làm cơ sở, giải quyết hiệu quả các yêu cầu của công tác thực tiễn là trọng tâm.

Cuối cùng, trong hoạt động đào tạo, giảng viên cũng cần phải được nâng cấp từ vai trò “người truyền thụ” sang vai trò “người hướng dẫn”, “người đối thoại”, “người đồng sáng tạo”. Chỉ có như vậy, mới có thể thúc đẩy và tạo nên được những con người có chất lượng đáp ứng các yêu cầu của thực tại và tương lai mà tiến trình chuyển đổi số đặt ra.

Bình luận