Chiến dịch quân sự của Nga tiếp tục diễn tại Ukraine, các thành phố bị pháo kích khiến hàng nghìn người thiệt mạng. Gần 4 triệu người Ukraine đã chạy sang Ba Lan, Slovakia và các nước láng giềng khác. Tốc độ và quy mô của làn sóng tị nạn này đã khiến nó trở thành cuộc di cư lớn nhất và nhanh nhất của người châu Âu kể từ Thế chiến thứ hai. Cuộc di cư này cũng đã làm dập tắt nhiều giả thiết về người tị nạn, bao gồm cả quan điểm cho rằng buộc phải di cư là một thách thức đối với “Nam toàn cầu” (global South).
Châu Âu hiện có nhiều người tị nạn hơn bất kỳ khu vực nào khác trên thế giới. Con số được trích dẫn của Liên Hợp Quốc rằng 85% người tị nạn trên thế giới đang ở các nước có thu nhập thấp và trung bình không còn chính xác.
Cuộc khủng hoảng Ukraine cho thấy tình trạng di dân gần đây, ví dụ như làn sóng người tị nạn từ Trung Đông đến châu Âu trong năm 2015 và 2016, cũng như số lượng kỷ lục người xin tị nạn từ Trung Mỹ đến biên giới Mỹ trong vài năm qua, không phải là một xu hướng nhất thời. Di dân cưỡng bức sẽ là một thách thức xác định của thế kỷ 21. Thực tế đó có ý nghĩa sâu sắc đối với cách châu Âu hỗ trợ người tị nạn. Cựu lục địa không còn có thể hoạt động như một "nhà tài trợ" cho các dự án phát triển và nhân đạo, bây giờ châu Âu phải phát triển khả năng chào đón một lượng lớn người tị nạn, bất kể họ đến từ đâu.
Quy trình tiếp nhận của Liên minh Châu Âu đối với những người xin tị nạn từ lâu đã không phù hợp với mục đích. Cái gọi là "hệ thống Dublin" của EU phân bổ trách nhiệm cho các quốc gia nơi người tị nạn đặt chân đến đầu tiên. Yêu cầu này trong lịch sử đã đặt ra trách nhiệm không cân xứng cho các quốc gia Địa Trung Hải như Hy Lạp và Ý.
Còn Cộng hòa Séc, Hungary, Ba Lan và Slovakia là những quốc gia chịu trách nhiệm chính trong việc ngăn chặn quá trình cải tổ "hệ thống Dublin" vào năm 2016. Giờ đây, các nước này đang ở giữa "cơn bão" tị nạn và người dân của họ đang thể hiện những hành động đoàn kết phi thường với những người tị nạn Ukraine, điều này cho thấy những các nước Đông Âu có thể sẵn sàng cải cách.
EU đã tạm thời cung cấp một hình thức cư trú giới hạn cho những người đến châu Âu trong một làn sóng ồ ạt, cho phép những người tị nạn từ Ukraine ở lại khối này trong ít nhất 3 năm. Ngay cả ở Vương quốc Anh, quốc gia đã áp dụng các chính sách tị nạn nghiêm ngặt hơn bao giờ hết sau khi nước này rời Liên minh châu Âu, hàng chục nghìn người đã đề nghị chia sẻ nhà của họ cho người tị nạn Ukraine và thúc đẩy chính phủ nới lỏng các chính sách thị thực.
Những hành động hào phóng và đoàn kết này tạo cơ hội cho các nhà lãnh đạo châu Âu thúc đẩy các chính sách tị nạn theo hướng công bằng hơn, một chính sách có thể phù hợp hơn với những người đến từ bên ngoài châu Âu. Sáu năm trước, hàng triệu người tị nạn đến châu Âu từ Syria và các quốc gia bị chiến tranh tàn phá khác. Sự chào đón ban đầu mà họ nhận được đã nhường chỗ cho một phản ứng dữ dội và chủ nghĩa dân tộc từ đó trỗi dậy. Điều đó không nên xảy ra nữa.
Trong cái rủi có cái may
Những cảnh tượng về chủ nghĩa nhân đạo hàng ngày đang diễn ra trên khắp châu Âu nên được tôn vinh. Những chiếc xe đẩy trống dành cho các bà mẹ cùng trẻ em tị nạn được đặt ở nhà ga xe lửa Ba Lan, những người lái xe xuyên lục địa để cung cấp những chuyến đi miễn phí cho các gia đình tị nạn và các điểm quyên góp ở hầu hết các thành phố ở Châu Âu, sự đồng cảm của người dân EU với hoàn cảnh của người Ukraine là điều chưa từng có.
Nhưng những cảnh này trái ngược với cách người châu Âu phản ứng với những người tị nạn khác trong những năm gần đây. Những người xin tị nạn châu Phi đi qua ngả Địa Trung Hải tiếp tục bất chấp rủi ro chết đuối chỉ để đối mặt với việc bị giam giữ và trục xuất. Người Ukraine đã được chào đón với vòng tay rộng mở ở Ba Lan, trong khi những người tị nạn Trung Đông bị lính biên phòng tấn công khi họ cố gắng vượt qua Belarus vào năm ngoái.
Sự khác biệt trong cách đối xử với người tị nạn là trái với tinh thần của luật tị nạn quốc tế, vốn đề cao quyền của những người được xin tị nạn ở bất kỳ đâu trên thế giới mà không bị phân biệt đối xử. Nó cũng chỉ ra một vấn đề âm ỉ hơn. Nhà văn người Mỹ Moustafa Bayoumi đã mô tả việc đưa tin của phương tiện truyền thông châu Âu về cuộc chiến Ukraine là phân biệt chủng tộc, khi những người tị nạn Cơ đốc giáo da trắng có đặc quyền so với những người chạy trốn khỏi đói nghèo và chiến tranh ở châu Phi và Trung Đông.
Sự đồng cảm có chọn lọc này hầu như không phải là một hiện tượng mới. Vào cuối Chiến tranh Lạnh, các nhà phê bình đã chỉ trích "huyền thoại về sự khác biệt" tiềm ẩn trong các chính sách của phương Tây đối với người tị nạn và người xin tị nạn: các nước Tây Âu và Bắc Mỹ vui lòng tiếp nhận những người chạy trốn khỏi Liên Xô và các nước thuộc Hiệp ước Warsaw, nhưng ít quan tâm hơn trong việc chấp nhận những người từ các nước phía Nam toàn cầu.
Cách tiếp cận đạo đức giả này đối với người tị nạn không chỉ có ở của phương Tây. Ví dụ, các quốc gia như Kenya đã đón nhận những người tị nạn từ Nam Sudan, trong khi đối xử với những người đến từ Somalia với thái độ thù địch. Thách thức nằm ở việc khuyến khích các quốc gia áp dụng cách tiếp cận rộng rãi và phổ quát hơn đối với người tị nạn.
Đôi khi, sự chấp nhận của các nhóm cụ thể có thể giúp mở rộng chính sách người tị nạn. Kinh nghiệm tiếp nhận hàng trăm ngàn người di dân từ Việt Nam tới Mỹ sau năm 1975 đã góp phần vào việc thông qua Đạo luật Người tị nạn 1980, tạo ra một quy trình có hệ thống để tiếp nhận người tị nạn và mở ra cánh cửa rộng lớn hơn cho các nhóm khác, chẳng hạn như từ Iran và Afghanistan trong thập niên sau đó.
Kinh nghiệm bảo vệ người tị nạn Bosnia và Kosovo tích cực của châu Âu trong những năm 1990 đã dẫn đến những đổi mới tiến bộ trong chính sách tị nạn của EU, chẳng hạn như Chỉ thị Bảo vệ Tạm thời, cho phép các chính phủ cấp cho những người di cư các quyền nhất định và khả năng ở lại châu Âu trong một khoảng thời gian giới hạn. Cuộc khủng hoảng Ukraine đã khiến EU đưa ra chỉ thị này lần đầu tiên kể từ khi ban hành vào năm 2001.
Đầu tháng 3, ông Filippo Grandi - Cao ủy LHQ về người tị nạn, cho rằng đoàn kết có thể là “tia hy vọng của cuộc khủng hoảng này, châu Âu hiểu rằng bất kỳ quốc gia nào cũng có thể trở thành nơi tiếp nhận một số lượng lớn người tị nạn và cần sự giúp đỡ của khác."
Nhưng việc tưởng tượng rằng dòng người tị nạn Ukraine có thể khiến các nước châu Âu thiết lập một hệ thống tị nạn toàn diện hơn và công bằng hơn không phải là suy nghĩ thần kỳ. Những người tị nạn mới đến và cộng đồng cư dân của họ có thể vận động cho các chính sách tiến bộ hơn. Các bài tường thuật trên truyền thông có thể làm ấm lòng hoàn cảnh của những người tị nạn và khuyến khích các nhà lãnh đạo chính trị nắm bắt thời điểm để thúc đẩy luật mới.
Cơ hội tương tác giữa người bản xứ và người tị nạn có thể thay đổi thái độ cũ của công chúng. Thật vậy, cuộc khủng hoảng có thể đã kéo châu Âu trở lại bờ vực chấm dứt hoàn toàn việc tị nạn, nhắc nhở các quốc gia đã áp dụng các chính sách hạn chế, chẳng hạn như Đan Mạch và Vương quốc Anh, rằng công chúng của họ vẫn muốn dành sự tôn trọng cho những người có nhu cầu.
Tuy nhiên, điều ngược lại cũng có thể đúng. Tình đoàn kết với người Ukraine có thể chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Trên khắp châu Mỹ Latinh, tình đoàn kết ban đầu với hơn 4 triệu người tị nạn Venezuela trong khu vực đã giảm bớt vào năm 2019, khi thực tế cạnh tranh về việc làm và dịch vụ công bắt đầu gay gắt.
Châu Âu đã chứng kiến những ví dụ trong quá khứ về phản ứng dữ dội đối với những người lao động nhập cư ở Đông Âu, người Pháp lo lắng về một cuộc xâm lược của "thợ ống nước Ba Lan" vào năm 2004, còn Vương quốc Anh từ chối mở rộng quyền tự do đi lại cho người lao động Bulgaria và Romania sau khi hai nước này gia nhập EU vào năm 2007. Các xã hội châu Âu có thể đang chào đón những người tị nạn Ukraine hiện nay, nhưng nguy cơ về một làn sóng quay lưng với họ luôn hiện hữu.
Lợi ích của làn sóng di cư
Hàng triệu người đã rời Ukraine, và con số đó sẽ tiếp tục tăng lên khi chiến tranh kéo dài. Nếu Kyiv thất thủ, cuộc di cư tiếp theo có thể rất lớn, với hàng triệu người nữa vượt qua biên giới và ở lại châu Âu vô thời hạn. Một kịch bản như vậy có thể dẫn đến từ 7 đến 15 triệu người rời bỏ Ukraine. Ngay cả trong kịch bản lạc quan nhất, một nền hòa bình được thiết lập hoặc một chiến thắng hoàn toàn cho Ukraine, không có nhiều người Ukrain sẵn sàng hồi hương. Tuy nhiên, những con số đáng kinh ngạc trên sẽ không quyết định những thay đổi về chính sách. Quyết định này nằm trong tay các nhà lãnh đạo châu Âu.
Châu Âu cho đến nay đã phản ứng tốt với dòng người Ukraine, nhưng họ cần phải bắt đầu lập các kế hoạch dài hạn ngoài giai đoạn khẩn cấp này. Hỗ trợ số lượng khổng lồ những người buộc phải rời khỏi Ukraine sẽ yêu cầu tất cả 27 quốc gia thành viên của EU cùng đoàn kết. Các nước châu Âu sẽ cần phải cam kết cả việc tiếp nhận người tị nạn và tài trợ cho việc chăm sóc họ.
Đầu tiên, các nhà lãnh đạo EU nên đề ra một kế hoạch tái định cư để phân bổ công bằng những người tị nạn trên khắp lục địa, phù hợp với sở thích về điểm đến của người tị nạn với năng lực của các khu vực tiếp nhận. Vào tháng 9 năm 2016, EU đã đồng ý kế hoạch tái định cư cho 160.000 người tị nạn Syria được chuyển từ Ý và Hy Lạp trên khắp lục địa. Tuy nhiên, Cộng hòa Séc, Hungary, Ba Lan và Slovakia, trong số những nước khác, đã ngăn không cho kế hoạch này được thực hiện đầy đủ, với lý do chương trình vi phạm chủ quyền quốc gia của họ. Sự cố chấp đó giờ đây càng trở nên thiển cận hơn khi hàng triệu người Ukraine đổ vào Đông Âu.
Thứ hai, các nước EU sẽ cần chia sẻ gánh nặng tài chính của các sáng kiến như vậy để đáp ứng chi phí lớn của việc cung cấp các dịch vụ công cần thiết. Các quốc gia này nên đóng góp vào các nỗ lực giải quyết người tị nạn trên cơ sở khả năng chi trả của họ, trong khi các nhà lãnh đạo ở Brussels và khắp châu Âu cũng nên huy động vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế và từ các quốc gia bên ngoài châu Âu - đặc biệt là Mỹ.
Các nguồn lực này nên được hướng đến cả người tị nạn và cư dân của các khu vực tiếp nhận để giành được sự hỗ trợ lâu dài cho các chính sách hòa nhập người tị nạn. Các khoản đầu tư có thể tạo ra nhà ở, trường học, bệnh viện và việc làm tốt hơn có lợi cho người dân bản xứ cũng như người tị nạn. Theo nghĩa đó, châu Âu cần phải học hỏi cách các nước ở châu Phi và châu Mỹ Latinh tiếp nhận người tị nạn: tạo cơ hội phát triển chung cho người tị nạn và người bản xứ, chẳng hạn như ở Colombia và Uganda, nơi cung cấp cho số lượng lớn người tị nạn cơ hội làm việc.
Một số quốc gia tiếp nhận người tị nạn chính ở Đông Âu có tỷ lệ thất nghiệp cao, các đảng phái dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ và các nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực bởi cả đại dịch COVID-19 đang diễn ra và cuộc chiến ở Ukraine.
Việc tránh phân cực và phản ứng dữ dội đòi hỏi công dân và chính phủ của họ phải coi người tị nạn là lợi ích hơn là gánh nặng. Thật vậy, nghiên cứu về thái độ của công chúng đối với người tị nạn ở châu Âu cho thấy rằng nhận thức rằng họ đóng góp tích cực cho nền kinh tế là chìa khóa để được chấp nhận. Moldova - một quốc gia chỉ có 3,5 triệu dân, hiện có gần 400.000 người Ukraine, vốn đang chịu tình trạng thất nghiệp ở lứa tuổi thanh niên cao, đã mất 10% kim ngạch thương mại với Nga và Ukraine, đồng thời nằm ở một vị trí chiến lược bấp bênh khi nằm ngoài NATO và liên minh châu Âu. Để tiếp tục cung cấp hỗ trợ cho người tị nạn, phương Tây cần đưa ra các giải pháp để chứng minh rằng người tị nạn có thể là một lợi ích kinh tế.
Kinh nghiệm tương đối thành công của Đức trong việc hòa nhập một triệu người Syria đến vào giữa những năm 2010 là một bài học hữu ích. Chính quyền Berlin đầu tư ồ ạt vào các chương trình giáo dục nghề nghiệp, đào tạo ngôn ngữ và tạo việc làm. Trong vòng 5 năm, hơn một nửa số người xin tị nạn trong độ tuổi lao động đến từ năm 2013 đã có việc làm.
Tất nhiên, sự xuất hiện của quá nhiều người mới đến đã gây ra phản ứng dữ dội, thúc đẩy sự ra đời của đảng cực hữu, chống người nhập cư mang tên "Con đường khác cho nước Đức" (AfD). Đáng chú ý, những khu vực ở Đức dễ bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa dân tộc của AfD lại không phải là những khu vực có mức độ nhập cư cao nhất, mà là những khu vực bị ảnh hưởng bởi quá trình phi công nghiệp hóa và tỷ lệ thất nghiệp cao, chẳng hạn như khu vực Hạ Sachsen. Để ngăn chặn kịch bản này, các chính phủ nên đầu tư đồng đều các khu vực, không chỉ những khu vực sẽ tiếp nhận một số lượng lớn người tị nạn.
Thay đổi bền vững
Một sự chuyển đổi cơ bản hơn vẫn có thể xảy ra. Các nhà lãnh đạo châu Âu có thể biến khoảnh khắc đoàn kết này thành sự thay đổi chính sách và luật pháp lâu dài ở cấp độ toàn châu Âu. Cuộc khủng hoảng người tị nạn năm 2015–2016 dẫn đến sự công nhận rộng rãi rằng khuôn khổ của Liên minh Châu Âu về đối phó với người di cư về cơ bản đã bị phá vỡ, nhưng các nước Châu Âu đã phải vật lộn để xác định khuôn khổ nào nên thay thế nó.
Họ đã tìm ra giải pháp thỏa hiệp trong Hiệp ước mới về di cư và tị nạn của Ủy ban châu Âu, được ban hành vào năm 2020. Thỏa thuận đưa ra các khuyến nghị trên phạm vi rộng cho các cải cách, bao gồm cả việc để Hội đồng châu Âu xem xét đại tu "hệ thống Dublin". Hiệp ước cũng kêu gọi “chia sẻ trách nhiệm và đoàn kết công bằng”, thúc giục các quốc gia thành viên tạo ra một hệ thống “đóng góp linh hoạt” khi tiếp nhận người tị nạn và chi trả cho việc chăm sóc họ. Mặc dù mơ hồ, một số ý tưởng này đưa ra cơ sở để EU xem xét lại cách các nước thành viên chia sẻ trách nhiệm đối với người tị nạn.
EU vẫn cần phải đưa ra các chính sách đối với dòng người ồ ạt như đã xảy ra vào năm 2015 và 2016 và đang diễn ra hiện nay. Chỉ thị Bảo vệ Tạm thời đưa ra một kế hoạch chi tiết về cách các quốc gia nên đối xử với người tị nạn và nó loại bỏ gánh nặng cho các quốc gia thành viên trong việc xác định tình trạng hợp pháp của từng người tị nạn.
Nhưng nó không chỉ rõ các quốc gia châu Âu nên chia sẻ trách nhiệm đối phó với làn sóng ồ ạt như thế nào. Việc thiết lập một khuôn khổ rõ ràng hơn cho việc chia sẻ trách nhiệm cũng sẽ cho phép các chính trị gia bảo vệ tốt hơn các cam kết của họ đối với người tị nạn, nhắc nhở người dân của họ rằng tất cả các quốc gia đang cùng chia sẻ gánh nặng.
Đồng thời, châu Âu cần có những cơ chế mới để ứng phó với sự xuất hiện tự phát của những người xin tị nạn, bởi vì cho đến cuộc khủng hoảng hiện nay, con đường khả thi duy nhất để hầu hết những người tị nạn đến được châu Âu là thông qua các đường dây buôn người trái phép. Châu Âu cần khẩn trương cập nhật cách thức họ hỗ trợ người tị nạn ở các khu vực khác trên thế giới, bao gồm thông qua kế hoạch tái định cư trên toàn EU và các chính sách chặt chẽ hơn liên quan đến tài trợ nhân đạo và phát triển cho các nước tiếp nhận người tị nạn bên ngoài EU.
Cuộc khủng hoảng Ukraine là cơ hội hiếm có để châu Âu đưa ra các chính sách tị nạn phù hợp với thế kỷ 21. Các nhà lãnh đạo của lục địa này đã không tận dụng được sự đoàn kết của công chúng đối với người tị nạn trong nửa cuối năm 2015. Họ không thể bỏ lỡ cơ hội đó một lần nữa. Cả người tị nạn của Ukraine và tương lai của người tị nạn ở châu Âu đều phụ thuộc vào nó.
Bài viết thể hiện quan điểm của giáo sư Alexander Betts từ Đại học Oxford.