|
Theo truyền thống của người Tây Tạng, Đạt-lại Lạt-ma là hiện thân lòng từ của chư Phật và Bồ Tát |
Đạt-lại Lạt-ma là phiên âm Hán Việt từ chữ Hán 達賴喇嘛. Trên thực tế, sách báo tiếng Việt sử dụng thường xuyên Đạt Lai Lạt Ma. "Đạt-lại" có gốc từ tiếng Mông Cổ nghĩa là "biển cả" còn "Lạt-ma" là từ tiếng Tây Tạng được dịch từ tiếng Phạn guru गुरू là từ xưng hô dành cho các vị Đạo sư. "Đạt-lại Lạt-ma" có nghĩa là "Đạo sư với trí huệ như biển cả". Trong lối dùng hàng ngày nhiều người còn dùng Phật sống để chỉ Đạt-lại Lạt-ma.
Theo truyền thống của người Tây Tạng, Đạt-lại Lạt-ma là hiện thân lòng từ của chư Phật và Bồ Tát, người chọn con đường tái sinh trở lại kiếp người để cứu giúp chúng sanh. Danh hiệu Đạt-lại Lạt-ma cũng được hiểu là Hộ Tín, "Người bảo vệ đức tin", Huệ Hải, "Biển lớn của trí tuệ", Pháp vương, "Vua của Chánh Pháp", Như ý châu, "Viên bảo châu như ý"...
Danh hiệu Đạt-lại Lạt-ma được vua Mông Cổ Altan Khan phong cho phương trượng của trường phái Cách-lỗ (bo. དགེ་ལུགས་པ་, hay Hoàng giáo) vào năm 1578. Kể từ 1617, Đạt-lại Lạt-ma thứ 5 trở thành người lãnh đạo chính trị và tinh thần của Tây Tạng. Kể từ đó, người Tây Tạng xem Đạt-lại Lạt-ma là hiện thân của Quán Thế Âm và Ban-thiền Lạt-ma là người phụ chính. Mỗi một Đạt-lại Lạt-ma được xem là tái sinh của vị trước. Vị Đạt-lại Lạt-ma thứ 6 có trình độ học thuật rất cao thâm và cũng là một nhà thơ.
Trái với quan điểm thông thường, Đạt-lại Lạt-ma không phải là người lãnh đạo tinh thần cao nhất của trường phái Cách-lỗ, địa vị này có tên là Ganden Tripa.
Vị Đạt-lại Lạt-ma hiện nay là vị thứ 14, sống lưu vong tại Ấn Độ từ 1959 đến nay. Sư được trao giải Nobel Hòa bình năm 1989, đồng thời là người đại diện Phật giáo xuất sắc hiện nay trên thế giới. Các tác phẩm Sư viết trình bày Phật giáo Tây Tạng và Phật pháp nói chung được rất nhiều người đọc kể cả người trong các nước Tây phương.
Vị Dalai Lama hiện nay được sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo trong một ngôi làng nhỏ ở phía đông bắc Tây Tạng năm 1935. Khi lên ba tuổi, các tu sĩ đến gặp và chỉ định cậu là hóa thân của Đức Dalai Lama 13, người đã viên tịch trước đó 4 năm.
Năm 1950, vào tuổi 15, Ngài đảm nhận vị trí lãnh đạo thế tục của Tây Tạng đúng lúc Trung Quốc xâm lược. 7 năm sau, Ngài trốn thoát và thành lập chính phủ lưu vong tại Dharamsala, phía bắc Ấn Độ. Cùng lúc đó, một phái đoàn Tây Tạng được triệu đến Bắc Kinh để ký văn bản từ bỏ nền độc lập của Tây Tạng.
Danh sách các vị Đạt-lại Lạt-ma
Căn-đôn Châu-ba (Gendun Drub, དགེ་འདུན་གྲུབ་པ་, 1391-1474)
Căn-đôn Gia-mục-thố (Gendun Gyatso, དགེ་འདུན་རྒྱ་མཚོ་, 1475-1542)
Toả-lãng Gia-mục-thố (Sonam Gyatso, བསོད་ནམས་རྒྱ་མཚོ་, 1543-1588)
Vinh-đan Gia-mục-thố (Yonten Gyatso, ཡོན་ཏན་རྒྱ་མཚོ་, 1589-1616)
La-bốc-tạng Gia-mục-thố (Losang Gyatso, ངག་དབང་བློ་བཟང་རྒྱ་མཚོ་, 1617-1682)
Thương-ương Gia-mục-thố (Jamyang Gyatso, ཚངས་དབྱངས་རྒྱ་མཚོ་, 1683-1706)
Cách-tang Gia-mục-thố (Kelsang Gyatso, བསྐལ་བཟང་རྒྱ་མཚོ་, 1708-1757)
Khương-bạch Gia-mục-thố (Jampel Gyatso, འཇམ་དཔལ་རྒྱ་མཚོ་, 1758-1804)
Long-đa Gia-mục-thố (Lungtog Gyatso, ལུང་རྟོགས་རྒྱ་མཚོ་, 1806-1815)
Sở-xưng Gia-mục-thố (Tsultrim Gyatso, ཚུལ་ཁྲིམས་རྒྱ་མཚོ་, 1816-1837)
Khải-châu Gia-mục-thố (Kedrub Gyatso, མཁས་གྲུབ་རྒྱ་མཚོ་, 1838-1856)
Xưng-lặc Gia-mục-thố (Trinle Gyatso, འཕྲིན་ལས་རྒྱ་མཚོ་, 1856-1875)
Thổ-đan Gia-mục-thố (Tubten Gyatso, ཐུབ་བསྟན་རྒྱ་མཚོ་, 1876-1933)
Đăng-châu Gia-mục-thố (Tenzin Gyatso, བསྟན་འཛིན་རྒྱ་མཚོ་, 1933-nay)
(Theo Wikipedia)