Việt Nam đang bước vào "kỷ nguyên vươn mình" – giai đoạn được Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh là “kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, với khát vọng đưa đất nước trở nên phồn vinh, hạnh phúc và đạt mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045.
Trên hành trình hiện thực hóa mục tiêu ấy, văn hóa không chỉ đảm nhận sứ mệnh gìn giữ bản sắc dân tộc mà còn đóng góp tích cực vào phát triển bền vững và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Bức tranh phát triển văn hóa trong kỷ nguyên mới cùng với tầm nhìn, giải pháp và hoạch định từ nhiều phía, đang từng bước làm sáng rõ khát vọng cũng như động lực để văn hóa Việt Nam vươn tầm thế giới.
![]() |
Khi năm 2024 chuẩn bị khép lại, bầu không khí hối hả của “Kỷ nguyên vươn mình” đã lan tỏa mạnh mẽ từ các diễn đàn Trung ương đến từng không gian sáng tạo địa phương. Tại Hội nghị gặp mặt đại biểu văn nghệ sĩ toàn quốc, Tổng Bí thư Tô Lâm không chỉ ghi nhận vai trò then chốt của văn hóa, mà còn truyền cảm hứng sâu sắc về tầm vóc và sứ mệnh của đội ngũ văn nghệ sĩ trong thời kỳ mới.
Tổng Bí thư khẳng định: “Đất nước ta đang đứng trước cánh cửa lịch sử để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh, vươn mình. Để đạt được mục tiêu lớn lao này, đòi hỏi sự nỗ lực bứt phá của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó đóng góp của nền văn học nghệ thuật, đội ngũ văn nghệ sĩ có vai trò đặc biệt quan trọng và đang đặt ra cấp bách”.
Khí thế ấy không chỉ được hun đúc từ dòng chảy lịch sử dân tộc, từ tinh thần chiến đấu và sáng tạo bất khuất của các thế hệ các nhà văn hóa đi trước, mà còn là sự tiếp nối mạch nguồn tư tưởng lớn – như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy". Trong dòng chảy đổi mới, phát triển và hội nhập, văn hóa tiếp tục giữ vai trò dẫn đường, văn nghệ sĩ là lực lượng góp phần “kiến tạo những giá trị và lối sống lành mạnh, tiến bộ”, trở thành sức mạnh nội sinh cốt lõi để Việt Nam chinh phục những đỉnh cao mới trên hành trình xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Sau đó, vào ngày 24/01/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 59-NQ/TW về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”, trong đó xác định văn hóa là “sức mạnh mềm”, “nguồn lực nội sinh” – một trong những trụ cột quan trọng và động lực phát triển kinh tế-xã hội, đòi hỏi sự chủ động, tích cực và bản lĩnh cao độ của cả hệ thống chính trị và cộng đồng văn hóa.
Giữa những khẩu hiệu và định hướng vĩ mô, điều dư luận quan tâm chính là cách thức biến chủ trương thành hành động cụ thể. Ngày 13/6/2025, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng đã ký Quyết định số 1984/QĐ-BVHTTDL ban hành Kế hoạch triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW. Kế hoạch này không chỉ thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra, mà còn xác định rõ đầu mối, lộ trình và cơ chế kiểm tra, đánh giá hàng năm, từ công tác tuyên truyền, chuyển đổi số đến mở rộng hợp tác quốc tế, nhằm phát huy sức mạnh văn hóa, nâng tầm vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
![]() |
Điểm nhấn tiếp theo của bức tranh chiến lược là sự kết nối uyển chuyển giữa truyền thống và hiện đại. Chiến lược công nghiệp văn hóa khẳng định bản sắc dân tộc không phải là món hàng “đóng hộp” mà cần được thổi luồng sinh khí của thời đại mới. Vì thế, các tiết mộc mạc của tranh Hàng Trống, Đông Hồ, Kim Hoàng đã hiện diện trong những thiết kế thời thượng; âm nhạc truyền thống hòa phối cùng EDM để theo chân nghệ sĩ khuấy động các lễ hội âm thanh của giới trẻ. Khi truyền thống hội ngộ cùng sáng tạo, văn hóa Việt không còn gói gọn trong giới nghiên cứu, mà đã lan tỏa đến giới thực hành - những người sẵn sàng chuyển tải tinh hoa ra thế giới.
Những thành công đạt được không chỉ phản ánh chính sách vĩ mô, mà còn minh chứng cho tư duy “đồng hành – trao quyền”. Qua đó, chính quyền từ trung ương tới địa phương hỗ trợ, cung cấp nền tảng, kết nối nguồn lực để nghệ sĩ, nhà sáng tạo tự do bay cao cùng ý tưởng. Đồng thời, khung chính sách như cơ chế ưu đãi thuế, tín dụng, quỹ đầu tư văn hóa mang đến kỳ vọng xây dựng nền tảng phát triển bền vững.
![]() |
Phát triển công nghiệp văn hóa từ lâu được xác định là một trong những chủ trương trọng yếu của Đảng. Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1755/QĐ-TTg, phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020 với tầm nhìn đến 2030. Kết quả bước đầu cho thấy chiến lược này không chỉ nâng cao nhận thức xã hội về văn hóa mà còn khẳng định vị trí ngày càng quan trọng của công nghiệp văn hóa trong tiến trình phát triển kinh tế-xã hội.
Theo Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hồ An Phong, qua 8 năm triển khai Chiến lược, công nghiệp văn hóa đã tạo ra sự chuyển biến tích cực, đóng góp hơn 4% GDP. Dù vậy, để Việt Nam bước vào Kỷ nguyên vươn mình theo chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, ngành công nghiệp văn hóa cần nỗ lực để vươn lên tầm cao mới. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và xu thế hội nhập toàn cầu khai mở cơ hội lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra yêu cầu về nhận thức, vị thế và tốc độ phát triển.
Trên cơ sở đó, Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch đang xây dựng Dự thảo Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 với những mục tiêu cụ thể. Đầu tiên, công nghiệp văn hóa phải mở rộng đóng góp cho nền kinh tế: hướng tới tỷ lệ 7% GDP vào năm 2030 và 9% vào năm 2045, đồng thời thu hút khoảng 6 triệu lao động.
Tiếp đó, quy mô và chất lượng cạnh tranh được đề cao khi chiến lược đặt trọng tâm vào việc hình thành các doanh nghiệp lớn, xây dựng một hệ sinh thái liên kết chặt chẽ giữa sáng tạo, sản xuất, kinh doanh và phân phối, cũng như phát triển các trung tâm phân phối sản phẩm trong nước và mở rộng ra quốc tế. Cuối cùng, công nghiệp văn hóa được kỳ vọng trở thành sức mạnh mềm cho quốc gia, khi những sản phẩm mang đậm bản sắc Việt không chỉ quảng bá văn hóa mà còn khẳng định thương hiệu Việt Nam trên trường quốc tế.
![]() |
Chia sẻ về Dự thảo, ông Trần Hoàng, Cục trưởng Cục Bản quyền tác giả, Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch, cho biết: “Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp văn hóa toàn cầu đã và đang là lĩnh vực tạo nên khả năng đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam”. Theo ông Hoàng, chiến lược mới không chỉ giúp Việt Nam “trở thành quốc gia phát triển về công nghiệp văn hóa trong khu vực châu Á”, mà còn “khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ công nghiệp văn hóa thế giới”.
Để hiện thực hóa những mục tiêu trên, chiến lược xác định các định hướng phát triển rõ ràng. Công nghiệp văn hóa sẽ theo đuổi lộ trình chuyên nghiệp và hiện đại, ứng dụng mạnh mẽ khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số vào toàn bộ chuỗi giá trị từ sản xuất đến phân phối. Cùng với đó, hội nhập quốc tế được coi là động lực then chốt: hợp tác đa phương, đưa sản phẩm Việt Nam ra thế giới và khai thác tối đa lợi thế văn hóa đặc trưng từng vùng miền. Chiến lược cũng ưu tiên đầu tư vào một số ngành trọng điểm như điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật, thiết kế sáng tạo và du lịch văn hóa để tạo đột phá về giá trị và ảnh hưởng.
Song song với các định hướng trên, chiến lược mới đề xuất hoàn thiện cơ chế chính sách — khung pháp lý minh bạch, hệ thống thống kê đầy đủ, cơ chế ưu đãi thuế và tín dụng cùng quỹ đầu tư công–tư. Công tác đào tạo cán bộ quản lý và kết nối chuyên gia trong và ngoài nước cũng được đặc biệt nhấn mạnh, nhằm xây dựng đội ngũ lãnh đạo, điều hành đủ năng lực để dẫn dắt ngành công nghiệp văn hóa phát triển bền vững.
![]() |
Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa nhằm khai thác tiềm năng bản sắc Việt, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và ổn định chính trị trong kỷ nguyên mới, đang là một trong những chủ đề nhận được nhiều sự quan tâm và đóng góp từ các chuyên gia, nhà quản lý trong lĩnh vực văn hóa.
PGS.TS Nguyễn Thị Thu Phương, Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, khẳng định, phát triển công nghiệp văn hóa không đơn thuần là câu chuyện về tăng trưởng mà là quá trình khiến văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển bền vững.
Theo bà, điều này đòi hỏi một hệ thống giải pháp đồng bộ từ chính sách, truyền thông, đào tạo nhân lực đến huy động nguồn lực tài chính và thể chế. Sự đầu tư từ phía nhà nước không chỉ dừng lại ở hỗ trợ vật chất mà quan trọng hơn là tạo dựng môi trường khuyến khích sáng tạo, bảo trợ nghệ sĩ và nuôi dưỡng các tài năng văn hóa ngay từ nền tảng giáo dục.
“Tăng cường đầu tư cho văn hóa cần dựa trên sự cân bằng giữa định hướng thị trường và dịch vụ công. Nhà nước phải chủ động đầu tư vào các lĩnh vực nền tảng như hạ tầng thông tin, đào tạo, pháp lý, tín dụng, đất đai và các cơ chế ưu đãi khác để thúc đẩy đổi mới và nội lực trong sản xuất, phân phối sản phẩm văn hóa”, PGS.TS Nguyễn Thị Thu Phương nhấn mạnh. Đồng thời, bà đề xuất chú trọng hỗ trợ hệ thống dịch vụ văn hóa công cộng, bởi đây là những lĩnh vực giàu giá trị và đóng góp xã hội lớn, nhưng lại thiếu nguồn lực vận hành.
Từ góc độ thể chế, PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của khu vực tư nhân trong phát triển công nghiệp văn hóa. Theo ông, cần thay đổi tư duy từ “xin-cho” sang “hợp tác cùng phát triển”, từ “hành chính hóa” sang “tạo điều kiện và đồng hành”. Ông Sơn cho rằng, kinh tế tư nhân không chỉ là nhà đầu tư mà còn là đối tác đồng kiến tạo tương lai văn hóa Việt Nam. “Trong kỷ nguyên mới, họ chính là lực lượng tiên phong với những người dám nghĩ, dám làm, dám thử nghiệm và mở đường, mang văn hóa Việt ra thế giới bằng những bước đi táo bạo, sáng tạo và linh hoạt”.
Thực tế cho thấy, khu vực tư nhân đã và đang làm thay đổi diện mạo nhiều lĩnh vực văn hóa từ điện ảnh, âm nhạc, thời trang, truyền thông cho tới xuất bản, nghệ thuật biểu diễn. Tuy nhiên, để khu vực này thực sự trở thành động lực chiến lược, rất cần một hệ sinh thái hỗ trợ gồm chính sách ưu đãi rõ ràng, hành lang pháp lý minh bạch và các cơ chế khuyến khích đổi mới.
![]() |
Từ góc nhìn quốc tế, TS. Tom Flemming, chuyên gia cao cấp của Hội đồng Anh, nhận định, Việt Nam đang đứng trước cơ hội để chuyển mình mạnh mẽ trong phát triển công nghiệp văn hóa. Ông cũng thẳng thắn chỉ ra những điểm nghẽn như cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành còn thiếu đồng bộ, sự tham gia của các tổ chức xã hội còn hình thức, hệ thống pháp lý chưa theo kịp với tốc độ vận động của thực tiễn. “Các rào cản pháp lý và nhận thức xã hội vẫn khiến văn hóa chưa thực sự được xem là lĩnh vực ưu tiên”, TS. Flemming nhận xét.
Ông cũng nhấn mạnh vai trò của dữ liệu trong đo lường sự phát triển ngành, đề xuất hoàn thiện hệ thống thu thập và phân tích dữ liệu để đánh giá hiệu quả chính sách và điều chỉnh chiến lược theo thời gian thực. Bên cạnh đó, cần tăng cường quảng bá hình ảnh quốc gia và ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Việc thu hút vốn đầu tư tư nhân, thiết lập quỹ đầu tư và thúc đẩy FDI trong lĩnh vực này cần được đặt trong trọng tâm chính sách, tạo điều kiện để doanh nghiệp nước ngoài phối hợp cùng doanh nghiệp trong nước phát triển thị trường.
Có thể thấy, chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa hiệu quả không chỉ nằm ở bản quy hoạch tổng thể, mà còn ở chỗ nhà nước đồng hành, tạo niềm tin cho khu vực tư nhân, cộng đồng sáng tạo và toàn xã hội cùng góp sức. Khi những nút thắt được tháo gỡ, thể chế được cải tiến và niềm tin được bồi đắp, công nghiệp văn hóa Việt Nam hoàn toàn có thể bứt phá, không chỉ hướng tới mục tiêu trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, mà còn là nguồn lực nội sinh quan trọng góp phần xây dựng hình ảnh và vị thế quốc gia trong kỷ nguyên mới.





