Trong một bản dự thảo hiệp ước được giao cho một nhà ngoại giao Mỹ ở Moscow, chính phủ Nga đã yêu cầu liên minh quân sự NATO ngừng mở rộng sang phía đông, đóng băng hoạt động vũ trang hóa trên lãnh thổ Liên Xô cũ, chấm dứt hỗ trợ quân sự cho Ukraine, và đặc biệt là lệnh cấm thiết lập hệ thống tên lửa tầm trung ở châu Âu. Phía Nga muốn phương Tây hiểu rằng: nếu những mối đe dọa này không thể được giải quyết bằng ngoại giao, Điện Kremlin sẽ phải dùng đến hành động quân sự.
Những lo ngại này đã quen thuộc với các nhà hoạch định chính sách phương Tây, những người trong nhiều năm đã phản ứng bằng cách lập luận rằng Moscow không có quyền phủ quyết đối với các quyết định của NATO và không có căn cứ để yêu cầu phương Tây ngừng gửi vũ khí cho Ukraine.
Cho đến gần đây, phía Moscow miễn cưỡng tuân theo các điều khoản đó. Giờ đây, dường như Nga quyết tâm thực hiện bằng được các biện pháp đối phó nếu không được đáp ứng yêu cầu.
Quyết tâm đó được thể hiện qua cách Nga trình bày hiệp ước với Mỹ và một hiệp định riêng với NATO. Giọng điệu của cả hai bản yêu cầu đều sắc bén. Phương Tây chỉ được cho một tháng để phản hồi, điều này đã tránh được khả năng xảy ra các cuộc đàm phán kéo dài và bế tắc. Cả hai bản dự thảo đã được công bố gần như ngay lập tức sau khi được gửi đi, một động thái nhằm ngăn chặn việc Washington làm rò rỉ và xoay chuyển đề xuất.
Nếu Tổng thống Nga Vladimir Putin đang hành động như thể ông nắm "con bài tẩy" trong tình thế bế tắc này, thì đó là bởi vì ông thực sự có. Theo các cơ quan tình báo Mỹ, Nga hiện có gần 100.000 quân và rất nhiều vũ khí hạng nặng ở sát biên giới Ukraine. Mỹ và các nước NATO khác đã lên án các động thái của Nga, nhưng đồng thời để ngỏ khả năng không bảo vệ Ukraine, quốc gia vốn không phải là thành viên NATO, mà chỉ đe dọa các biện pháp trừng phạt khắc nghiệt nhắm vào Nga.
Nhưng các yêu cầu của Moscow là bản đề xuất mở, không phải là một tối hậu thư. Về một hiệp ước chính thức với Mỹ, chính phủ Nga hiểu rằng nhờ sự phân cực và bế tắc, việc phê chuẩn bất kỳ hiệp ước nào tại Thượng viện Mỹ sẽ là điều bất khả thi.
Một hiệp định hành pháp - về cơ bản là một hiệp định giữa hai chính phủ không cần phải được phê chuẩn và do đó không có tư cách là luật - có thể là một sự thay thế thực tế hơn. Nếu có một thỏa thuận như vậy, Nga sẽ thực hiện các cam kết có đi có lại để giải quyết một số lo ngại của Mỹ và tạo ra cái mà nước này gọi là “cán cân lợi ích”.
Cụ thể, Điện Kremlin có thể hài lòng nếu chính phủ Mỹ đồng ý với lệnh cấm dài hạn chính thức đối với việc mở rộng lãnh thổ NATO và cam kết không bố trí các tên lửa tầm trung ở châu Âu. Nó cũng có thể được hỗ trợ bởi một hiệp định riêng giữa Nga và NATO nhằm hạn chế các lực lượng quân sự và hoạt động ở những vùng lãnh thổ hai bên tiếp giáp nhau, từ Baltic đến Biển Đen.
Việc chính quyền Tổng thống Joe Biden có sẵn sàng chấp thuận các yêu cầu của Nga hay không vẫn còn là câu hỏi bỏ ngỏ.
Các nhà phân tích dự đoán dư luận Mỹ sẽ phản đối một hiệp định với Nga bởi tình trạng phân cực chính trị và thực tế là việc đạt được thỏa thuận với Putin khiến chính quyền Biden hứng chịu những lời chỉ trích rằng họ đang tỏ ra nhu nhược. Làn sóng phản đối cũng sẽ cao ở châu Âu, nơi các nhà lãnh đạo cảm thấy rằng một thỏa thuận thương lượng giữa Washington và Moscow khiến họ trở thành những kẻ ngoài cuộc.
Đây đều là những vấn đề nghiêm trọng. Nhưng điều quan trọng cần lưu ý là chính quyền Putin đã trải qua 4 đợt mở rộng NATO và đã phải chấp nhận việc Washington rút khỏi các hiệp ước kiểm soát tên lửa đạn đạo, lực lượng hạt nhân tầm trung và máy bay quan sát không vũ trang.
Đối với Putin, Ukraine là lằn ranh cuối cùng. Vị tổng tư lệnh Nga được hỗ trợ bởi các cơ sở an ninh và quân sự của ông, mặc dù công chúng Nga lo ngại về một cuộc chiến, nhưng nhiều khả năng ông Putin sẽ không phải đối mặt với sự phản đối trong nước đối với chính sách đối ngoại của mình. Quan trọng nhất, phía Mỹ đã đúng khi cho rằng Putin không nói chơi. Chính quyền Biden cũng đã đúng khi không từ chối các yêu cầu của Nga và thay vào đó, chấp nhận đàm phán.
Lằn ranh đỏ của Putin
Có một sự bất đối xứng đáng kể về tầm quan trọng mà phương Tây và Nga dành cho Ukraine. Phương Tây đã mở rộng triển vọng trở thành thành viên NATO của Ukraine vào năm 2008, nhưng không có thời gian biểu chính thức để kết nạp.
Sau năm 2014, khi Nga sáp nhập Crimea từ Ukraine và bắt đầu hỗ trợ lực lượng thân Nga ở vùng Donbas của Ukraine, thật khó để biết chính phủ Mỹ sẽ cho phép Ukraine gia nhập NATO như thế nào. Rốt cuộc, sẽ có rất ít sự ủng hộ của công chúng ở Mỹ để đưa quân tới tham chiến tại Ukraine.
Chính quyền Washington cam kết với Kyiv một lời hứa mà cả hai bên đều biết là không thể giữ được. Ngược lại, Nga coi Ukraine là lợi ích an ninh quốc gia quan trọng và tuyên bố sẵn sàng sử dụng vũ lực nếu lợi ích đó bị đe dọa. Sự gần gũi về địa lý với Ukraine giúp Nga có lợi thế hơn so với Mỹ và các đồng minh.
Điều này không có nghĩa là một cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine sẽ xảy ra. Bất chấp xu hướng của giới truyền thông phương Tây khi miêu tả Putin là người liều lĩnh, trên thực tế, nhà lãnh đạo này rất thận trọng và tính toán, đặc biệt là khi sử dụng vũ lực.
Putin không sợ rủi ro - các hoạt động ở Chechnya, Crimea và Syria là bằng chứng về điều đó - nhưng trong suy nghĩ của ông, lợi ích phải lớn hơn phí tổn. Putin sẽ không gây chiến với Ukraine đơn giản chỉ vì chính quyền Kyiv có xu hướng ngả theo phương Tây.
Điều đó cho thấy, có một số kịch bản có thể thúc đẩy Điện Kremlin điều quân đến Ukraine. Vào năm 2018, Tổng thống Nga Putin đã công khai tuyên bố rằng nỗ lực của Ukraine để giành lại lãnh thổ ở khu vực Donbas bằng vũ lực sẽ dẫn đến một phản ứng quân sự.
Có một tiền lệ lịch sử cho việc này: năm 2008, Nga đã phản ứng bằng vũ lực trước một cuộc tấn công của Gruzia vào nước cộng hòa ly khai Nam Ossetia. Một ranh giới khác của Nga là việc Ukraine gia nhập NATO hoặc bố trí các căn cứ quân sự và hệ thống vũ khí tầm xa của phương Tây trên lãnh thổ của mình.
Putin sẽ không bao giờ nhượng bộ về vấn đề này. Tuy nhiên, hiện tại hầu như không có sự ủng hộ nào từ Mỹ và các thành viên NATO khác trong việc để Ukraine gia nhập liên minh. Vào đầu tháng 12 năm 2021, các quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ nói với Ukraine rằng tư cách thành viên NATO của quốc gia này khó có thể được chấp thuận trong thập kỷ tới.
Nếu NATO tăng cường lực lượng của mình ở các quốc gia thành viên phía đông, điều đó có thể quân sự hóa thêm ranh giới phân chia mới ở châu Âu chạy dọc theo biên giới phía tây của Nga và Belarus.
Nga có thể bị kích động khi đặt nhiều tên lửa tầm ngắn hơn ở Kaliningrad - phần lãnh thổ cực tây của Nga nằm giữa Ba Lan và Lithuania. Một liên minh quân sự chặt chẽ hơn với Belarus có thể gây thêm áp lực lên Ukraine. Moscow cũng có thể công nhận “các nước cộng hòa nhân dân” tự xưng là Donetsk và Luhansk và hợp nhất chúng thành một thực thể địa chính trị mới với Nga và Belarus.
Những tác động địa chính trị của các kịch bản này có thể vượt xa ngoài châu Âu. Để chống lại các biện pháp trừng phạt kinh tế và tài chính quyết liệt hơn của phương Tây nếu xảy ra chiến tranh, Nga có thể cần dựa vào Trung Quốc, quốc gia cũng đang chịu áp lực ngày càng tăng của Mỹ.
Tổng thống Putin và Chủ tịch Tập Cận Bình đã thảo luận về các cơ chế tài chính để bảo vệ đất nước của họ khỏi các lệnh trừng phạt của Mỹ. Trong trường hợp đó, chuyến thăm Trung Quốc dự Thế vận hội Mùa đông vào tháng 2 năm 2022 của ông Putin có thể không chỉ là một hoạt đoojng xã giao. Sau đó, Mỹ sẽ phải chứng kiến Trung Quốc và Nga trở thành một liên minh chặt chẽ hơn. Hợp tác kinh tế, công nghệ, tài chính và quân sự giữa hai cường quốc sẽ đạt được những cấp độ mới.
Trò chơi đổ lỗi
Mối đe dọa sử dụng vũ lực của Putin xuất phát từ sự thất vọng của ông với một tiến trình ngoại giao bị đình trệ. Nỗ lực của Điện Kremlin nhằm lôi kéo Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky đạt được thỏa thuận với Donbas đã trở nên vô ích.
Ông Zelensky, người đã giành được chức vụ Tổng thống trong một cuộc tranh cử với tư cách là một ứng cử viên hòa bình, là một nhà lãnh đạo đặc biệt thất thường. Quyết định của ông về việc sử dụng máy bay không người lái có vũ trang ở vùng Donbas vào năm 2021 đã làm gia tăng căng thẳng với Moscow vào thời điểm Ukraine không đủ khả năng để khiêu khích nước láng giềng.
Không chỉ giới lãnh đạo của Ukraine mà Moscow coi là vấn đề. Pháp và Đức đã nỗ lực để đạt được một giải pháp ngoại giao nhằm giải quyết bế tắc giữa Nga-Ukraine.
Liên minh châu Âu, vốn bảo đảm cho các thỏa thuận Minsk năm 2014 và 2015 được cho là mang lại hòa bình cho khu vực, đã không thành công trong việc thúc đẩy Ukraine đạt được một thỏa thuận. Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier, khi đó trên cương vị Ngoại trưởng, thậm chí không thể khiến chính quyền Kyiv chấp nhận một thỏa hiệp mà lẽ ra sẽ cho phép tổ chức bầu cử ở vùng Donbas.
Tháng 11 năm ngoái, người Nga đã đi xa hơn khi công bố thư từ ngoại giao riêng giữa Ngoại trưởng Sergei Lavrov, và những người đồng cấp Pháp và Đức để chứng minh cách các cường quốc phương Tây đứng về phía chính phủ Ukraine.
Và mặc dù phương Tây tập trung vào việc đóng quân của Nga gần biên giới Ukraine, điều này diễn ra khi các nước NATO mở rộng hoạt động quân sự của họ ở khu vực Biển Đen và Ukraine. Vào tháng 6, một tàu khu trục của Anh đã đi qua vùng lãnh hải ngoài khơi Crimea, mà London không công nhận là thuộc về Nga, kích động phía Nga nổ súng cảnh báo.
Vào tháng 11, một máy bay ném bom chiến lược của Mỹ đã bay trong vòng 13 dặm từ biên giới Nga ở khu vực Biển Đen, khiến Putin tức giận. Khi căng thẳng gia tăng, các cố vấn quân sự, vũ khí và đạn dược của phương Tây đã đổ vào Ukraine.
Người Nga cũng nghi ngờ rằng một trung tâm huấn luyện mà Vương quốc Anh đang xây dựng ở Ukraine thực chất là một căn cứ quân sự của nước ngoài. Ông Putin kiên quyết cho rằng việc triển khai các tên lửa của Mỹ ở Ukraine, với khả năng bay tới Moscow trong 5-7 phút, là không thể và sẽ không được dung thứ.
Đối với Nga, các mối đe dọa quân sự leo thang là không thể nhầm lẫn. Trong các bài báo và bài phát biểu của mình, Tổng thống Putin có thể nhấn mạnh đến sự đoàn kết của các dân tộc Nga và Ukraine, nhưng điều ông quan tâm nhất là ngăn chặn sự mở rộng của NATO ở Ukraine.
Vào tháng 3 năm 2014, sau khi cử lực lượng vào Crimea để đối phó với cuộc lật đổ tổng thống của Ukraine, Viktor Yanukovych, ông Putin đã nhắc tới căn cứ hải quân nổi tiếng của Nga ở Crimea: “Tôi không thể tưởng tượng rằng chúng ta sẽ đến cảng Sevastopol để thăm các thủy thủ NATO. Tất nhiên, hầu hết họ đều là những chàng trai tuyệt vời, nhưng sẽ tốt hơn nếu họ đến thăm chúng tôi, làm khách của chúng tôi, thay vì ngược lại.”
Hành động của Putin cho thấy rằng mục tiêu thực sự của ông không phải là chinh phục Ukraine và sáp nhập nước này vào Nga, mà là thay đổi bối cảnh hậu Chiến tranh Lạnh ở phía đông châu Âu.
Hiện trạng này đã khiến Nga trở thành một cường quốc không có nhiều tiếng nói trong vấn đề an ninh châu Âu, vốn tập trung vào NATO. Nếu Putin có thể ngăn cản NATO vươn tầm ảnh hướng tới Ukraine, Gruzia và Moldova, và các tên lửa tầm trung của Mỹ ra khỏi châu Âu, nhà lãnh đạo 69 tuổi nghĩ rằng ông có thể sửa chữa một phần thiệt hại mà an ninh của Nga phải gánh chịu sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Đó có thể là lợi thế khổng lồ giúp ông tái đắc cử trong cuộc bầu cử Tổng thống vào năm 2024.