"Sợ trách nhiệm" là một căn bệnh không gây hậu quả tức thì nhưng ăn mòn âm ỉ
Ở đâu có quyền lực, ở đó có trách nhiệm. Nhưng trớ trêu thay, trong không ít tổ chức, cơ quan, điều dễ bắt gặp lại là những gương mặt dè dặt, những câu nói vòng vo, né tránh, những quyết định bị trì trệ không phải vì thiếu hiểu biết, mà vì sợ trách nhiệm. Bệnh “sợ trách nhiệm” không đao to búa lớn như một vụ bê bối, không có hình hài cụ thể như một vụ án tham nhũng, nhưng lại là một thứ ung nhọt dai dẳng trong bộ máy, ăn mòn niềm tin, làm chậm bước tiến của đổi mới và cải cách.
Căn bệnh ấy, nó không loại trừ ai, từ người quản lý cấp phòng, đến lãnh đạo cấp tỉnh, từ cán bộ hành chính đến giám đốc doanh nghiệp nhà nước hay những người quản trị hành chính công. Người dân gọi hiện tượng này bằng cụm từ dân dã nhưng thấm thía: “thấy việc khó thì né, thấy việc dễ thì giành, thấy việc sai thì đẩy”.
Biểu hiện ngại va chạm, sợ sai, chờ chỉ đạo. Một trong những biểu hiện dễ thấy nhất là hiện tượng “đùn đẩy trách nhiệm”. Trong một vụ việc cụ thể, người dân hoặc doanh nghiệp có thể phải đi lòng vòng qua nhiều cơ quan để rồi cuối cùng nhận được một câu trả lời: “Chúng tôi không có thẩm quyền”. Câu chuyện buồn hơn là khi cả bộ máy nhìn thấy vấn đề, biết rõ giải pháp, nhưng không ai đứng ra ký tên vì đôi khi ký cũng được, không ký cũng được nên "kệ".
Tiếp theo là tình trạng “trì hoãn trong ra quyết định”. Một số cán bộ lãnh đạo chỉ yên tâm ký khi đã có đầy đủ văn bản “che chắn”, ý kiến từ cấp trên và sự đồng thuận từ tập thể. Nhưng trong một số trường hợp, việc chờ đủ giấy tờ, đủ hội họp, chính là chôn vùi cơ hội vàng để giải quyết vấn đề. Một biểu hiện nữa là “đi họp để né ký”, đo là khi người lãnh đạo chọn cách tổ chức họp liên tục để đẩy trách nhiệm từ cá nhân sang tập thể. Họ nói “phải xin ý kiến thêm”, “cần tham vấn nhiều chiều”, nhưng thực chất là né tránh vai trò người quyết định cuối cùng.
Tác hại của căn bệnh trầm kha ấy chính là sự tê liệt hành động, kiến tạo, làm khổ dân, thiệt nước. Tác hại lớn nhất của bệnh sợ trách nhiệm là làm tê liệt hành động. Một chủ trương lớn có thể bị “treo” chỉ vì một vài cá nhân không dám ký. Một chương trình cải cách có thể dừng lại vì lãnh đạo “chờ ý kiến”. Và một quyết định nhân sự cần thiết có thể bị trì hoãn vì sợ điều tiếng. Bệnh này kéo dài sẽ dẫn tới hiện tượng người dân mất niềm tin, doanh nghiệp mất kiên nhẫn, và năng lực điều hành bị hoài nghi. Trong nền hành chính, sợ trách nhiệm đồng nghĩa với không dám sáng tạo, không dám mở đường, và không dám chịu rủi ro vì lợi ích chung. Nói cách khác là vị kỷ là chính. Trong giáo dục, văn hoá, y tế, nó khiến những quyết sách nhân văn, đột phá, sáng tạo bị đóng băng. Trong kinh tế, đầu tư, tài chính, nó khiến nhà đầu tư nản chí, tiền vốn bị chôn chân, cơ hội bị lỡ.
![]() |
| Đại biểu Trần Quốc Tuấn phát biểu tại phiên thảo luận tại hội trường về kinh tế - xã hội (Ảnh: HT-TT) |
Nguyên nhân và hệ quả của tâm lý “an toàn là trên hết”
Phân tích sâu, có thể thấy căn bệnh trên do những nguyên nhân chủ yếu là: Tâm lý an toàn cá nhân: Nhiều người trong bộ máy hành chính chọn sống “lặng lẽ để không bị soi”, “không làm thì không sai”, nên càng lên cao, càng chọn cách “né rủi ro”. Cơ chế kiểm điểm nặng, bảo vệ nhẹ. Cán bộ làm sai có thể bị xử lý nhanh chóng, nhưng người dám làm, cho dù làm đúng lại không được bảo vệ hoặc biểu dương rõ ràng. Điều này tạo tâm lý làm nhiều dễ bị soi, không làm thì yên thân. Hoặc làm ít sai ít, làm nhiều sai nhiều, không làm không sai.
Thiếu niềm tin vào cấp trên và đồng cấp khi một số lãnh đạo cấp trung sợ nếu mình quyết định, sẽ không được cấp trên ủng hộ hoặc bị đồng nghiệp “bỏ rơi” khi có vấn đề phát sinh. Quản trị tổ chức kém minh bạch như lhông có cơ chế đánh giá năng lực rõ ràng, khiến những người giỏi cũng bị cuốn vào vòng an toàn.
Một số ví dụ điển hình là trong giải ngân đầu tư công, nơi nhiều địa phương có vốn nhưng không dám giải ngân, vì sợ sai, sợ thanh tra, sợ trách nhiệm cá nhân nếu dự án sau này có vấn đề. Hay trong lĩnh vực quản lý đất đai, nhiều nơi không dám ký chuyển đổi mục đích sử dụng đất, khiến doanh nghiệp phải chờ đợi hàng năm trời, dù dự án đúng pháp luật và đúng quy hoạch.
Trong ngành giáo dục, có hiệu trưởng không dám đưa ra phương án đổi mới học thuật vì “phải chờ Bộ” nên dù quy định đã cho phép trường tự chủ. Ngay cả trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước, nhiều giám đốc chọn cách không ký hợp đồng lớn, không đầu tư mới, chỉ lo bảo toàn vốn vì “dính đến đầu tư là rủi ro”, “kiểm toán soi kỹ lắm”.
Khi sự tránh né trở nên “bình thường hoá” và điều nguy hiểm nhất là khi bệnh sợ trách nhiệm trở thành “văn hoá né tránh”, người mới vào nghề học cách “khôn ngoan là không quyết định”; người lâu năm truyền nhau bí kíp “để người khác ký trước”. Bộ máy cứ thế vận hành với những con người tìm cách đùn đẩy, không phải giữ giá trị và vì sự phát triển. Khi sự an toàn cá nhân được đặt lên trên hiệu quả công việc, thì toàn bộ cơ cấu tổ chức sẽ đánh mất động lực đổi mới. Và điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh của nền kinh tế, niềm tin xã hội, và tương lai của cải cách thể chế.
Trách nhiệm là bản lĩnh không có chỗ cho sự chậm trễ
Trách nhiệm không phải là thứ có thể phân bổ theo tỷ lệ, càng không thể để lại cho tập thể “tự xử”. Mỗi quyết định cần có người chịu trách nhiệm, và người đứng đầu phải là người đứng ra trước tiên. “Bệnh sợ trách nhiệm” cần được gọi đúng tên, chỉ rõ biểu hiện, nhận diện nguyên nhân chứ không thể để nó tiếp tục lây lan trong môi trường công vụ. Vì nếu không, chúng ta có thể tiếp tục xây dựng luật, đề xuất chính sách, phát động cải cách nhưng mọi thứ sẽ nằm lại trên giấy.
Trong thời kỳ đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ, cần những người mở đường, băng rừng, vượt suối, không thể để những người chỉ biết lo thân, né ký, bàn lùi… làm cản đường đổi mới. Trách nhiệm là bản lĩnh của người đứng đầu. Khi không dám chịu trách nhiệm, quyền lực trở nên vô nghĩa.
Nguyên Ngọc - Tất Thắng
(Học viện An ninh Nhân dân - Công an thành phố Hà Nội)
