Cành vàng lá ngọc
Lâu nay, cụ ông Lê Văn Kinh (90 tuổi, ngụ TP Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế) không chỉ được biết đến với tài thêu tranh tuyệt đẹp mà còn bởi ông còn lưu giữ những cổ vật quý hiếm có niên đại hàng trăm năm.
Theo tìm hiểu, ông Kinh là cháu ngoại của cụ Nguyễn Văn Giáo (từng làm Tham tri Bộ Lễ dưới triều Nguyễn). Lúc làm quan, cụ Giáo có sở thích sưu tầm những đồ vật quý mỗi khi có dịp đi sứ Trung Quốc và nhiều lần được vua ban vì có công với triều đình. Sau này, cha và ông ngoại mất, ông Kinh được tiếp quản những món đồ gia bảo này.
Nghiên mực vua ban |
Những đồ cổ của ông được bày biện rất đẹp mắt và khoa học, nổi bật trong bộ sưu tập đồ sộ của gia đình ông phải kể đến cây “Kim Chi Ngọc Diệp”. Cây “Kim Chi Ngọc Diệp” được cất giữ trang trọng trong tủ kính, cây này do vua Khải Định ban tặng cho ông ngoại của ông Kinh khi có công lớn với triều đình, ước tính cây này có niên đại hơn 100 năm. Kim chi ngọc diệp tượng trưng cho sự giàu có, quý phái của hoàng tộc chốn cung đình. Cây cao hơn 30 cm, thân cây bằng vàng mạ đặc tả theo cây mai, có hàng chục "hạt" mai bằng hồng ngọc, huyền ngọc, thanh ngọc, bích ngọc, mã não, ngọc bích, cẩm thạch…, và những sợi chỉ kết nối đủ màu sắc rực rỡ. Theo các nhà chuyên môn, cây quý này là cây thứ ba đang có mặt trên đất Huế, sau hai cổ vật khác đang được trưng bày tại Đại nội Huế.
Ấm Mạnh Thần hiếm thấy |
“Cây này được bảo quản một cách chu đáo, tôi không lau chùi gì, nếu lau chùi thì mất đi vẻ bóng loáng của nó đi, như vậy không còn quý nữa”, ông Kinh cho hay.
Ngoài cây lá ngọc cành vàng, còn có bộ nghiên mực làm bằng đá đen có tên là “Lưỡng long tranh châu” chạm hai con rồng tranh viên ngọc ở giữa, xung quanh là cảnh vật thiên đình, ngoài nghiên mực, có thêm thỏi mực tàu, bút viết và giá đỡ làm bằng gỗ mun. Ông Kinh cho biết: “Nhìn những chi tiết chạm khắc trên nghiên mực cũng thấy quý rồi, huống gì đây là đồ cổ và do vua Khải Định ban tặng cho ông ngoại tôi”.
Tuy vậy, thỉnh thoảng, ông đem ra dùng chiếc nghiên mực này như một nghiên mực bình thường. Chỉ những ai biết và hỏi thăm đến ông mới đem ra giới thiệu.
Tấm vải thừa từ chiếc hoàng bào của vua Khải Định
Treo trang trọng ở góc nhà, tấm vải thừa từ chiếc hoàng bào của vua Khải Định cũng trở nên đặc biệt. Tấm vải thừa được gia đình ông đóng khung cẩn thận, đây được coi là báu vật hiếm có. Ngày nay, hoàng bào của các vua chúa triều Nguyễn đều được phục chế thì tấm vải khoảng 0,4 m2 ấy chính là tài sản mà thân sinh của ông Kinh để lại. Ông Kinh tự hào kể về lai lịch tấm vải quý: “Nhân Tứ tuần Đại khánh [lễ lớn mừng vua 40 tuổi] của vua Khải Định, cha tôi là cụ Lê Văn Hỡi đảm nhiệm việc thêu áo bào cho vua, nhưng tấm vải may áo bào có thừa một phần nên cha tôi để lại”.
Tấm vải áo hoàng bào vua Khải Định |
Đặt trước tủ là hỏa lò Cù Lao có từ thế kỷ 17 được mua về từ Hà Nội. Ấm đun nước được làm bằng đồng dát nên rất mỏng. Không những thế, đây là một hỏa lò rất đặc biệt. Phần lõi của ấm có lỗ rỗng để bỏ than đun nước, xung quanh là nước để giữ đủ độ nóng đảm bảo cho việc pha trà. Lửa cứ đỏ liên tục làm cho nước luôn nóng, phần tro của than sẽ rơi xuống đáy ấm. Độc đáo hơn cả là bộ bình trà có 3 bình khác nhau, tất cả đều xuất xứ từ Trung Quốc. Đó là ấm Mạnh Thần, ấm Tuyên Đức, ấm “Nhất tống tứ quân”.
Ông Kinh giới thiệu: “Ấm trà Mạnh Thần là một trong ba bình trà cổ quý vào bậc nhất hiện nay, trong tác phẩm của Nguyễn Tuân từng nhắc đến trong tác phẩm “Vang bóng một thời”, đó là “Thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần”. Theo tìm hiểu, ở đáy ấm trà có khắc dòng chữ Hán “Hà hoa mãn trì đường, Mạnh Thần”, nghĩa là hoa sen trong ao mọc bên vệ đường với ngụ ý rằng ấm sẽ lưu giữ được hương thơm của trà.
Chiếc ấm nhỏ bằng nhúm tay nhưng có niên đại lên tới 500 năm. Ấm được làm bằng đất nung, có gắn chiếc coi bằng đồng đen. Theo các nhà khoa học, nhiệt độ nung của chiếc bình đất đạt tới 2.000 độ C nhưng nhiệt độ nóng chảy của coi đồng chỉ tới 1.200 độ C. Và việc gắn đồng coi vào mà vẫn sử dụng được là một điều thú vị.
Nổi bật trong bộ sưu tập này là chiếc ấm trà Tuyên Đức. Chiếc ấm làm bằng đất có kích cỡ như quả quýt và được nung bằng kỹ thuật điêu luyện. Quai ấm làm bằng đồng đen. Tương truyền vào thời Tuyên Đức (nhà Minh - Trung Quốc) sản xuất được 200 chiếc, tất cả dưới đáy ấm đều có dòng chữ Hán “Tuyên Đức Đường”. Đặc biệt, khi dội nước sôi chiếc ấm sẽ khô ngay. Tích tụ theo thời gian, trong lòng ấm lưu giữ lại một lớp keo trà, được xem là thứ quý nhất của ấm trà cổ.
Ngoài ra, ông còn cất giữ bộ “Nhất tống tứ quân” (gồm có 1 chén lớn - 4 chén nhỏ) và bộ dụng cụ thưởng trà gồm: một cây đũa ngà voi dài, hũ đựng trà bằng gỗ, một độc lư xông trầm, một chiếc chậu bằng đồng thau, hai khay gỗ...
Theo ông Kinh, tất cả các ấm đều được ông cất giữ cẩn thận trong tủ kính, đề phòng việc hư hỏng. Việc bảo quản chúng cũng không có vấn đề gì, để càng lâu càng quý hơn. “Thật ra bảo quản những đồ cổ này cũng không có khó khăn gì. Những cái nào dễ bể thì cho vào tủ, còn lại thì để trên tủ trưng bày”, ông Kinh chia sẻ.
Khi được hỏi về dự định của ông đối với những cổ vật quý báu này, ông dốc lòng tâm sự rằng: “Những món đồ này tôi sẽ không bán chúng, bởi đồng tiền to thật nhưng không quý bằng những cổ vật này, tôi sẽ giữ mãi cho con cháu tôi để chúng bảo quản cẩn thận”.