Sự phổ biến của các bộ phim về du lịch như “The Journey” đã một lần nữa trở thành bài học “định vị” lại giá trị lịch sử và lối sống của người dân Malaysia, để người già tự hào còn thế hệ trẻ nhìn lại quá khứ, trân trọng các giá trị văn hóa. Sự tin tưởng của người Malaysia vào giá trị của di sản văn hóa thể hiện rõ qua cách người dân “lăng xê” các giá trị văn hóa như món onde-onde thơm phức và rán giòn nổi tiếng được nhắc đến nhiều trong những cuộc trò chuyện với người dân địa phương.
Sự tôn kính đối với di sản là một lợi thế, lợi ích trước mắt nhất là nó giúp xây dựng một bản sắc dân tộc chung khác biệt với tất cả các quốc gia khác. Nó tăng cường sự gắn kết xã hội và ý thức cộng đồng và tạo nên lòng yêu nước.
Di sản và lịch sử Malaysia mang lại lợi ích thương mại cho công dân của chính đất nước này. Di sản văn hóa của Malaysia thường được tận dụng như một điểm thu hút khách du lịch tiềm năng cả trong nước và quốc tế.
Theo Cục thống kê của Malaysia, ngành du lịch năm 2017 chủ yếu dựa vào du lịch văn hóa, chiếm 14,9% nền kinh tế quốc gia, đóng góp 23,2% tổng số việc làm quốc gia năm 2017.
Những lợi ích thương mại mà di sản của Malaysia mang tới lại có thể được chuyển tiếp vào các dự án bảo tồn di sản. Điều này giúp làm chậm sự suy tàn của di sản văn hóa của Malaysia và giảm nhu cầu xóa và tái phát triển các khu vực lịch sử vì lợi ích của tăng trưởng kinh tế.
Từ nhỏ, người Malaysia được tiếp xúc với văn hóa của dân tộc và ngành du lịch thông qua các bài học ngôn ngữ ở trường. Điều này đảm bảo hiệu quả rằng sinh viên sở hữu vốn từ vựng để nói lên sự tự tin của họ về lợi ích kinh tế xã hội mà bảo tồn di sản và du lịch mang lại cho quốc gia.
Do số lượng khách du lịch đến thăm các di sản của Malaysia ngày càng tăng, nên nhu cầu về cơ sở hạ tầng như khách sạn, nhà hàng, nơi cung cấp các món ăn địa phương và bất cứ thứ gì khác có thể phục vụ như một biểu tượng thuận tiện của văn hóa địa phương.
Việc mở rộng cơ sở hạ tầng này làm tăng lượng doanh thu khai thác từ khách du lịch, nhưng nó đi kèm với sự thay đổi chi phí thương mại khi các khu dân cư và không gian công cộng được chuyển thành không gian để giải trí và tiêu dùng cho khách du lịch. Nó thậm chí có thể làm sai lệch bản sắc địa phương.
Tuyên bố một khu vực như một địa điểm di sản đẩy giá bất động sản tăng lên, dẫn đến sự thay đổi nhân khẩu học khi các cộng đồng cũ bị di dời. Ngoài ra, giá thuê cao hơn cuối cùng thay thế các nhà bán lẻ truyền thống, vì chi phí cơ hội phục vụ cư dân địa phương (trái ngược với khách du lịch) tăng lên.
Kết quả là do du lịch thương mại, khu vực đó trở thành một nơi kinh doanh hơn là một nơi có văn hóa và lịch sử.
Một cuộc khảo sát nhanh về các cộng đồng địa phương ở những nơi như George Town và Melaka sẽ bị ảnh hưởng xấu bởi khách du lịch quá đông như ô nhiễm âm thanh, hình ảnh và thậm chí là phân ly xã hội.
Các yếu tố xã hội như vậy góp phần làm cho cộng đồng địa phương có cảm giác không hài lòng với nơi cư trú của họ và làm giảm niềm đam mê văn hóa.
Sử dụng ví dụ về những tác phẩm nghệ thuật trên tường ở Penang, chúng ta có thể lập luận rằng quá trình "du lịch hóa" được thay đổi nhanh thông qua sự phổ biến của việc sử dụng phương tiện truyền thông xã hội.
Khi hình ảnh được chụp tại các địa điểm cụ thể của các đối tượng cụ thể được lưu hành trên phương tiện truyền thông xã hội, sự phổ biến của chúng cuối cùng thu hút nhiều người đến thăm các khu vực này và gây áp lực cho du lịch.
Mọi người trở nên gắn bó hơn về các khía cạnh trực quan, thẩm mỹ của văn hóa cộng đồng, do đó tạo điều kiện cho sự hiểu biết vật chất hơn về di sản.
Việc thương mại hóa quá mức di sản có nguy cơ làm loãng di sản hiện có và cuối cùng chỉ còn lại một ít di sản văn hóa cho các thế hệ tiếp theo.
Sự hiểu biết duy nhất mà họ có về các nền văn hóa trước họ sẽ là một nền văn hóa tầm thường và chẳng có gì độc đáo.
Theo The Star