Tình hình doanh nghiệp khả quan hơn qua từng quý
Tình hình doanh nghiệp ra nhập và rút khỏi thị trường đã có tín hiệu khá tích cực qua từng quý. Quý I/2024, số doanh nghiệp ra nhập thị trường chỉ bằng 0,8 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường; chỉ số này của 6 tháng đã đổi chiều, với số doanh nghiệp ra nhập bằng 1,08 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường; đến 9 tháng, chỉ số doanh nghiệp ra nhập thị trường gấp 1,11 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường.
Trong 9 tháng, bình quân một tháng có 20,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tuy vậy cũng có 18,2 nghìn doanh nghiệp rút khỏi thị trường.
Đáng lưu ý, trong tổng số 121,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, có tới 75,8% số doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ. Hoạt động của doanh nghiệp dịch vụ phụ thuộc vào tổng cầu tiêu dùng trong nước của nền kinh tế.
Theo ước tính, hậu quả của cơn bão số 3 gây thiệt hại cho nền kinh tế trên 81 nghìn tỷ đồng, dư nợ của ngành ngân hàng bị tác động khoảng 165 nghìn tỷ, tác động tới hoạt động kinh tế tại 21 địa phương chiếm trên 40% GDP của nền kinh tế, làm giảm giá trị tăng thêm cả 3 khu vực: khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm khoảng 0,33%, công nghiệp và xây dựng giảm khoảng 0,05% và dịch vụ giảm 0,22%, làm GDP năm 2024 giảm khoảng 0,15%.
Tuy nhiên, tổng cầu thế giới đang tạo cơ hội cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam, các doanh nghiệp lạc quan về triển vọng trong năm 2025.
Xuất khẩu có triển vọng lập mốc lịch sử mới
Năm 2024, tăng trưởng kinh tế Việt Nam dựa vào "cỗ xe tam mã", cũng là ba động lực tăng trưởng: Xuất khẩu hàng hoá trong bối cảnh tổng cầu thế giới dần gia tăng; giải ngân vốn đầu tư công, giữ vững ổn định vĩ mô tạo niềm tin và động lực cho các nhà đầu tư nước ngoài giải ngân vốn FDI; tiêu dùng cuối cùng trong nước.
Trong 9 tháng đầu năm 2024, hoạt động thương mại hàng hoá quốc tế đóng vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đạt 299,63 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước.
Bức tranh xuất khẩu hàng hóa trong 9 tháng đầu năm có sắc màu tươi mới đó là tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của khu vực kinh tế trong nước đạt 20,7%, cao hơn nhiều tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 13,4% của khu vực FDI.
Ngoại trừ kim ngạch xuất khẩu hàng hoá ba tháng đầu năm 2024 biến động tăng, giảm do yếu tố "mùa vụ", bức tranh xuất khẩu hàng hoá của nước ta trong 9 tháng ghi dấu ấn đậm nét với kim ngạch xuất khẩu bình quân những tháng sau cao hơn những tháng trước.
Bình quân một tháng trong 9 tháng đầu năm 2024 kim ngạch xuất khẩu đạt 33,29 tỷ USD, cao hơn 1,52 tỷ USD so với bình quân một tháng trong 6 tháng đầu năm. Nếu duy trì được mức xuất khẩu tháng sau cao hơn tháng trước trong quý IV/2024 thì tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2024 ước lập mốc lịch sử khoảng 400 tỷ USD, vượt mốc 371,82 tỷ USD của năm 2022.
Cán cân thương mại hàng hoá 9 tháng đầu năm 2024 xuất siêu 20,79 tỷ USD, giảm 0,53% so với mức xuất siêu 20,9 tỷ USD của cùng kỳ năm 2023; trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 17,38 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 38,17 tỷ USD.
Tính chung chín tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 17,4 tỷ USD, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó dịch vụ du lịch đạt 8,8 tỷ USD (chiếm 50,6% tổng kim ngạch), tăng 33,4% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ vận tải đạt 4,9 tỷ USD (chiếm 28,1%), tăng 7,9%.
Cách tiếp cận mới trong đầu tư công
Điểm sáng trong chỉ đạo giải ngân vốn đầu tư công, đó là sự chỉ đạo quyết liệt, xử lý những bất cập chồng chéo trong môi trường pháp lý; với tư duy đổi mới, phương pháp, cách tiếp cận khác của Thủ tướng Chính phủ và lãnh đạo địa phương.
Dự án đường dây 500 kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối đã rút ngắn thời gian thi công từ 3-4 năm xuống còn 7 tháng. Đây là điển hình sinh động về tập trung nguồn lực, quan tâm chỉ đạo, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư công, tạo sự lan toả và thu hút đầu tư từ các nguồn vốn của nền kinh tế. Thành công của dự án là minh chứng cho khả năng vượt qua mọi khó khăn khi có quyết tâm cao, tinh thần trách nhiệm của hệ thống chính trị và sự đồng lòng của toàn dân.
Tuy vậy, theo Bộ Tài chính, ước giải ngân vốn đầu tư công trong 9 tháng đầu năm 2024 mới đạt 320,56 nghìn tỷ đồng, đạt 47,29% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.
Trong khi đó, trong 9 tháng đầu năm 2024, vốn đầu tư ngoài nhà nước thực hiện đạt 1.336,9 nghìn tỷ, chiếm 55,3% tổng số vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, giải ngân vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước có dấu hiệu khởi sắc nhưng vẫn chưa huy động hết tiềm năng cho phát triển.
Đầu tư nước ngoài khởi sắc, sẵn sàng đón nhận làn sóng đầu tư mới
Cùng với tận dụng các lợi thế hiện có của kinh tế Việt Nam trong thu hút nguồn vốn FDI, trong thời gian qua, Chính phủ có những quyết sách nhằm tạo dựng cơ hội, chuẩn bị tâm thế sẵn sàng đón nhận làn sóng FDI thế hệ mới.
Điển hình như thành lập đưa vào hoạt động Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia, xây dựng chiến lược phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, hợp tác với các doanh nghiệp, đối tác nước ngoài thực hiện mục tiêu đào tạo 50 nghìn kỹ sư đến năm 2030. Chính phủ và các địa phương cũng đang thực thi giải pháp nhằm đảm bảo năng lượng ổn định, phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng xanh.
Số dự án, số vốn đăng ký của các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt số vốn FDI thực hiện 9 tháng đầu năm 2024 là nét chấm phá của bước ngoặt trong làn sóng đón nhận dòng vốn FDI thế hệ mới. Nhiều dự án lớn ở các lĩnh vực bán dẫn, năng lượng, sản xuất linh kiện, sản phẩm điện tử, sản phẩm nhiều hàm lượng giá trị gia tăng được đầu tư mới và bổ sung vốn trong 9 tháng.
Trong 9 tháng đầu năm 2024 có 2.492 dự án được cấp phép, với số vốn đăng ký đạt 13,55 tỷ USD, tăng 11,3% với cùng kỳ năm trước; có 1.027 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt 7,64 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện ước đạt 17,3 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước, là số vốn FDI thực hiện cao nhất của 9 tháng trong 5 năm qua, cao hơn cả số vốn FDI thực hiện 9 tháng đầu năm 2019 - năm trước đại dịch.
Cùng với giải ngân vốn đầu tư công, Chính phủ và các địa phương cần tiếp tục có chính sách và giải pháp thực hiện vốn đầu tư ngoài nhà nước, thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện giải ngân vốn FDI nhiều nhất có thể để "ngựa đầu tư" trong "cỗ xe tam mã" thực hiện tốt vai trò gánh vác, bù đắp, hỗ trợ "ngựa kéo tiêu dùng" trong nỗ lực kéo cỗ xe tăng trưởng kinh tế cả năm về đích với kết quả cao nhất.
Kết quả thực hiện động lực đầu tư đã nâng năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế cho những năm tới. Trong 9 tháng, tích luỹ tài sản theo giá hiện hành đạt 2.451,4 nghìn tỷ đồng, tăng 6,86%, đóng góp 36,68% vào tăng trưởng của nền kinh tế.
Tiêu dùng cuối cùng - động lực lớn nhất, quan trọng nhất
Tiêu dùng cuối cùng chiếm tỷ trọng trên 63% GDP, phản ánh vai trò rất quan trọng của động lực này đối với tăng trưởng kinh tế. Trong 9 tháng đầu năm nay, tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình và Chính phủ tăng 6,18%, đóng góp 62,66% vào tốc độ tăng 6,82% của nền kinh tế.
Dù vậy, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 4.703,4 nghìn tỷ đồng, tăng 8,8%, thấp hơn 1,3 điểm phần trăm so với mức tăng 10,1% của cùng kỳ năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá so sánh tăng 5,8%, thấp hơn 1,8 điểm phần trăm so với mức tăng 7,6% của cùng kỳ năm 2023.
Điều này này có nguồn gốc từ hậu quả nặng nề kéo dài của đại dịch COVID-19, việc di cư của nhiều người lao động từ các khu công nghiệp về quê…
Chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa linh hoạt, phù hợp
Cũng trong 9 tháng đầu năm, Chính phủ đã chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ, kết hợp hài hoà với chính sách tài khoá và các chính sách khác, phù hợp với diễn biến của nền kinh tế, kiểm soát lạm phát, giữ ổn định vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng.
NHNN giữ ổn định các mức lãi suất điều hành tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp để hỗ trợ nền kinh tế.
Ngay từ đầu năm, NHNN đã định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2024 khoảng 15%, đồng thời giao hết toàn bộ chỉ tiêu cả năm cho các tổ chức tín dụng, linh hoạt điều chỉnh phù hợp với diễn biến tình hình thực tế. Đặc biệt, NHNN đã chủ động bổ sung hạn mức tín dụng cho các tổ chức tín dụng có tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2024 đạt từ 80% chỉ tiêu NHNN đã thông báo đầu năm 2024, tạo thuận lợi cung ứng vốn đối với nền kinh tế.
Cùng với giải pháp điều hành lãi suất và tín dụng, NHNN đã phối hợp đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp, xử lý hiệu quả các cú sốc bên ngoài, bình ổn thị trường ngoại tệ, Việt Nam đồng mất giá với biên độ phù hợp với xu hướng chung của các đồng tiền trong khu vực và trên thế giới, góp phần giữ vững ổn định vĩ mô và kiểm soát lạm phát.
Bộ Tài chính tiếp tục thực hiện chính sách giảm, giãn, hoãn các loại thuế, phí, tiền thuê đất để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn, ổn định và phát triển sản xuất.
Với sự năng động của các thực thể kinh tế trong sản xuất kinh doanh, cùng với việc điều hành chính sách tài khoá và tiền tệ linh hoạt, trách nhiệm của Chính phủ, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tạo dư địa để điều chỉnh giá một số loại dịch vụ chiến lược sát với giá thị trường.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2024 tăng 0,29% so với tháng trước, tăng 2,18% so với tháng 12/2023, tăng 2,36% so với cùng kỳ năm trước, lạm phát bình quân 9 tháng được kiểm soát ở mức 3,88%, lạm phát cơ bản ở mức 2,69%.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng đầu năm 2024 tăng 6,82%, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (khu vực I) tăng 3,2%. Khu vực công nghiệp và xây dựng (khu vực II) tăng 8,19% và khu vực dịch vụ (khu vực III) tăng 6,95%.
So với kịch bản tăng trưởng GDP để cả năm đạt mục tiêu tăng 6,5% thì khu vực I tăng đúng bằng mức cao trong kịch bản; khu vực II tăng cao hơn 1,69 điểm phần trăm; và khu vực III tăng cao hơn 0,15 điểm phần trăm.
Bức tranh tăng trưởng kinh tế 9 tháng phản ánh khu vực II và khu vực III đã khởi sắc, dần lấy lại vai trò là động lực và dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế. Khu vực dịch vụ tăng cao hơn 0,63 điểm phần trăm so với 9 tháng đầu năm 2023. Tuy vậy, một số ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực dịch vụ có mức tăng thấp hơn so với 9 tháng đầu năm 2023.
Đưa cỗ xe kinh tế Việt Nam năm 2024 về đích thắng lợi
Năm 2024 là năm bứt phá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, tạo thế và lực cho đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Trong bối cảnh bức tranh kinh tế 9 tháng có nhiều điểm sáng, đan xen với khó khăn thách thức, Chính phủ và các địa phương đang khẩn trương thực hiện các giải pháp khắc phục hậu quả thiên tai, sớm đưa các doanh nghiệp và hộ sản xuất bị ảnh hưởng quay trở lại hoạt động; tập trung thúc đẩy và phát huy hiệu quả cao nhất các động lực tăng trưởng.
Như Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhiều lần nhấn mạnh, đầu tư công có vai trò quan trọng, tạo tác động lan toả, dẫn dắt, kích hoạt các nguồn lực xã hội cho phát triển. Năm 2024, Chính phủ dành 677,3 nghìn tỷ đồng cho đầu tư công.
Trong 3 "ngựa kéo" cỗ xe kinh tế năm 2024, các nhà quản lý có thể chủ động cao nhất trong điều khiển "ngựa đầu tư" để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả năm. Vì vậy, Chính phủ và các địa phương cần huy động sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị, phát huy tinh thần trách nhiệm của các cấp các ngành, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu.
Đặc biệt, cần linh hoạt hơn trong thu hút các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế chứ không chỉ dựa vào nguồn vốn nhà nước để cùng thời điểm có thể thực hiện nhiều dự án thành phần của các dự án lớn tầm cỡ. Đông thời, chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn cho từng dự án đầu tư công có quy mô lớn, liên quan tới nhiều ngành, nhiều địa phương như cách triển khai thực hiện Dự án đường dây 500 kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối.
Với tầm quan trọng của đầu tư ngoài nhà nước, Chính phủ cần có giải pháp khơi thông, thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngoài nhà nước cho phát triển.
Tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình và Chính phủ là động lực có quy mô lớn nhất, tác động mạnh nhất, quan trọng nhất trong các động lực tăng trưởng của nền kinh tế.
Tổng cầu tiêu dùng cuối cùng tăng lên đồng nghĩa với tháo gỡ khó khăn về tìm kiếm thị trường cho khu vực doanh nghiệp, giải quyết việc làm cho người lao động, giảm bớt sự phụ thuộc vào tổng cầu thế giới. Do đó, cần tiếp tục kích cầu tiêu dùng thông qua chính sách thuế và an sinh xã hội như giảm thuế thu nhập cá nhân; giảm thuế VAT với thời hạn dài hơn, tỷ lệ cao hơn 2%; kích cầu du lịch trong nước và thu hút du lịch nước ngoài; tăng cường các đợt khuyến mại với mục tiêu Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam…
Cùng với đó là các chính sách an sinh xã hội trợ cấp cho người nghèo, hỗ trợ nhà ở xã hội cho người lao động, tạo an tâm về chỗ ở, khuyến khích tinh thần làm việc, để nâng cao tỷ lệ lao động của khu vực chính thức, tạo việc làm ổn định đáp ứng đủ yêu cầu lao động của doanh nghiệp…
Để phát huy tối đa động lực tăng trưởng xuất khẩu, đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế, cần tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ, chính sách tỷ giá để hỗ trợ doanh nghiệp gia tăng nguồn cung, tiết giảm chi phí nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt.
Bộ Công Thương cần tiếp tục đẩy mạnh xúc tiến thương mại, đa dạng hoá thị trường xuất, nhập khẩu; nâng cao hiệu quả công tác thông tin thị trường; hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng hiệu quả cơ hội và thực hiện đầy đủ cam kết từ các Hiệp định thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu; đồng thời tăng cường tuyên truyền về quy tắc xuất xứ và cấp Giấy chứng nhận xuất xứ; tập trung xây dựng hình ảnh doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam uy tín.
Các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm đơn hàng, mở rộng thị trường, duy trì cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu ở mức cao nhất có thể.
Để thúc đẩy phục hồi chuỗi cung ứng lao động, cần đẩy mạnh đào tạo nghề và kỹ năng đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp, đồng thời thực thi chính sách, giải pháp cải thiện và nâng cao đời sống người lao động, như hỗ trợ nhà ở cho người lao động tại các khu công nghiệp.
Đặc biệt, các doanh nghiệp sắp xếp lại sản xuất, cắt giảm chi phí không cần thiết, chủ động nâng mức lương lên cao hơn để phù hợp với điều kiện sống của lao động và có chế độ chăm sóc, đãi ngộ hấp dẫn hơn nhằm tuyển dụng đủ lao động đáp ứng nhu cầu sản xuất.