Đây sẽ là câu hỏi quan trọng của các nhà đầu tư trước khi quyết định thiết lập danh mục đầu tư của họ cho năm 2021. Đồng thời đây cũng là câu hỏi then chốt đối với nền kinh tế toàn cầu và các nhà hoạch định chính sách.
Trong bài viết đăng tải trên tờ Financial Times và được tờ Australia Financial Review dẫn lại, Giáo sư Mohamed El-Erian, Chủ tịch Trường Queens thuộc Đại học Cambridge, cố vấn cao cấp của hai tập đoàn tài chính Allianz và Gramercy, nhận định: "Trong suốt năm 2020 giữa bối cảnh xảy ra đại dịch COVID-19, khoảng cách giữa thị trường tài chính và nền kinh tế thực tiếp tục nới rộng hơn rất nhiều. Các thị trường cổ phiếu phục hồi nhanh chóng từ mức thấp nhất của ngày 23/3 đã đưa phần lớn các chỉ số tại Mỹ lên mức cao kỷ lục".
Cũng theo chuyên gia, điều này xuất hiện trước cả khi các thông tin tốt về vắc-xin ngừa COVID-19 được tung ra. Hơn thế nữa, chúng được kết hợp với chính sách thuận lợi từ các ngân hàng trung ương, cho phép các chủ sở hữu yên tâm phát hành những khoản nợ kỷ lục, với mức bồi thường thấp nhất trong lịch sử dành cho các chủ nợ.
Trong khi đó, tình hình kinh tế toàn cầu vẫn còn nhiều bất ổn. Một làn sóng lây nhiễm COVID-19 khác đang đẩy các nền kinh tế của châu Âu chìm sâu vào suy thoái, khiến khả năng phục hồi kinh tế của Mỹ trở nên khó khăn hơn và hạn chế mức độ hoạt động tốt hơn của khu vực Đông Á, nơi được xem là động lực mạnh mẽ của tăng trưởng toàn cầu. Nếu bối cảnh này ngày càng kéo dài, nguy cơ “trượt dốc” sẽ càng làm xói mòn sự phát triển trong dài hạn.
Triển vọng kinh tế không chắc chắn với sự phân tán đáng chú ý giữa các quốc gia quan trọng trong hệ thống kinh tế thế giới là một trong những di sản quan trọng của COVID-19 mà các thị trường đã bỏ qua, do niềm tin cao về khả năng bảo vệ giá tài sản từ các ngân hàng trung ương, giúp nhà đầu tư tránh khỏi những ảnh hưởng bất lợi.
Không có gì khiến nhà đầu tư yên tâm hơn khi biết rằng các ngân hàng trung ương, với túi tiền khổng lồ của mình, sẽ mua chứng khoán mà họ sở hữu - đặc biệt khi người mua sẵn sàng chi trả với bất kỳ giá nào và có khoản vốn kiên nhẫn không giới hạn. Phản ứng hợp lý của các nhà đầu tư không chỉ là “tải sẵn” hành vi mua của họ mà còn tìm kiếm các cơ hội nơi các quỹ tìm kiếm lợi nhuận sẽ được thúc đẩy.
Kết quả không chỉ là các làn sóng do thanh khoản thúc đẩy diễn ra không ngừng nghỉ bất kể các nguyên tắc cơ bản. Nó còn làm thay đổi điều kiện thị trường và đảo ngược trạng thái “tác nhân và hiệu quả” truyền thống.
Theo tác giả, những thách thức mà nhà đầu tư phải đối mặt vào năm 2021 có lẽ sẽ ít hơn trong vài tuần đầu tiên, nhưng nhiều hơn vào quãng thời gian cuối năm. Sự thay đổi chỉ xảy ra khi một hoặc nhiều sự bất đồng đột ngột được tăng tốc, bao gồm sự đảo ngược chính sách tiền tệ (rất khó xảy ra), tai nạn thị trường do chấp nhận rủi ro quá mức (có thể xảy ra nhiều hơn nhưng không quá lớn) và sự gia tăng các vụ phá sản doanh nghiệp (có khả năng xảy ra nhiều nhất nhưng sẽ diễn ra theo thời gian). Hiện tại, trong khi các nhà đầu tư tiếp tục lướt sóng thanh khoản có lợi nhuận cao, mọi thứ có thể sẽ trở nên phức tạp hơn khi thế giới dần bước vào năm 2021.
Sự bóp méo thị trường ngày càng lớn của các ngân hàng trung ương sẽ khó có khả năng bảo vệ được cho các nền kinh tế đang phục hồi, trong bối cảnh kỳ vọng lạm phát gia tăng. Phục hồi kinh tế chưa chắc đủ bù đắp hoàn toàn tác động của các vụ phá sản doanh nghiệp hoặc tác động bất lợi của bất bình đẳng cao hơn. Các nhà đầu tư có thể sẽ hối hận vào ngày họ mạo hiểm đầu tư vào các loại tài sản xa rời với môi trường sống tự nhiên của họ, mà thiếu thanh khoản đủ để điều chỉnh.
Tác giả cho rằng điều hướng bối cảnh như vậy yêu cầu cần phải có đủ các công cụ phân tích, nhưng thật đáng tiếc, những công cụ này sẽ làm giảm lợi nhuận trong phần lớn các làn sóng do thanh khoản thúc đẩy.
Một số công cụ cần thiết bao gồm phân tích tín dụng và kỹ thuật chi tiết cao, lập kế hoạch kịch bản, cấu trúc thông minh, đánh giá tính thanh khoản trong các phân khúc thị trường và hiểu rõ hơn về mức độ có thể thu hồi của các sai lầm đầu tư.
Nó cũng bao gồm sự sẵn sàng kiểm tra lại một số quyết định đầu tư. Điều này liên quan đến việc xem xét lại cấu trúc danh mục đầu tư truyền thống là dồn 60% tiền vào cổ phiếu và 40% vào thu nhập cố định hiện nay, khi lợi suất trái phiếu chính phủ giảm một cách giả tạo.
Sự mất kết nối lớn giữa Wall Street và Main Streel đã tiếp tục kéo dài hơn nhiều so với dự kiến. Điều này cho thấy, một lần nữa, những hậu quả không mong muốn của các cách tiếp cận chính sách, trong đó gánh nặng đặt lên vai của các ngân hàng trung ương đã bị quá tải.
Kết thúc bài viết, tác giả kỳ vọng rằng vào năm 2021, với sự phục hồi kinh tế được hỗ trợ bởi việc phát triển thành công vắc-xin ngừa COVID-19, các nguyên tắc cơ bản tốt hơn của doanh nghiệp sẽ giúp đánh giá được chính xác giá của tài sản và cho phép tái cân bằng có trật tự các chính sách kết hợp giữa tiền tệ-tài khóa-cấu trúc.