Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trình Năng Chung, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, dấu tích của người tiền sử được tìm thấy ở hầu khắp các hang. Di vật khảo cổ xen lẫn vỏ nhuyễn thể và xương răng động vật. Đồ gốm tìm thấy ở lớp trên mặt. Trong hố đào, các nhà khảo cổ còn phát hiện được dấu tích của hai bếp cổ, chưa phát hiện được dấu tích mộ táng.
Đoàn khảo cổ phát hiện được mảnh đá dẹt hình bầu dục được khoan thủng ở đầu nhỏ của mảnh đá. Lỗ khoan tròn có đường kính 0,4cm. Các nhà khảo cổ cho rằng, đây có thể là đồ trang sức được xỏ dây đeo trên cổ. Loại di vật này còn khá hiếm gặp trong các di tích tiền sử nước ta. Mặc dù chưa tìm thấy công cụ mài, nhưng việc tìm thấy bàn mài trong hố đào chứng tỏ, cư dân cổ đã biết đến kỹ thuật mài. Sự có mặt của nhiều hòn ghè, đá cuội nguyên liệu, đá có vết ghè và mảnh tước, chứng tỏ quá trình gia công chế tác công cụ được tiến hành tại chỗ.
Hầu hết công cụ đá đều được chế tác từ những viên đá cuội sông suối. Loại hình công cụ thu được trong hố đào mang đặc trưng công cụ văn hóa sơ kỳ Đá mới như công cụ hình đĩa, công cụ hình bầu dục, rìu ngắn, công cụ chặt hai rìa lưỡi, nạo, dao cắt làm từ mảnh tước lớn, hòn ghè, bàn mài, chày nghiền, bàn nghiền...
Các nhà khảo cổ đã thu lượm được nhiều mảnh xương răng động vật. Qua phân tích di tích xương động vật, bước đầu xác định có các lợn rừng, khỉ, nhím, gà rừng, dúi, nai… Di tích nhuyễn thể chủ yếu là vỏ ốc suối, ốc núi, trai, hến cùng một vài di tích thực vật như hạt trám, hạt me... Việc tìm thấy nhiều xương răng động vật và vỏ nhuyễn thể cùng những dấu tích thực vật còn lại cho thấy săn bắt, hái lượm chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong phương thức tìm kiếm nguồn thức ăn của người tiền sử nơi đây. Sự có mặt của bàn nghiền và chày nghiền là bằng chứng việc chế biến thức ăn thường được tiến hành gần cạnh bếp lửa.
Đồ gốm được tìm thấy trên mặt hang là những mảnh vỡ từ nhiều loại hình khác nhau, chất liệu xương gốm pha ít bã thực vật, độ nung khá cao, xương gốm mỏng, cứng, được chế tác bằng bàn xoay với hoa văn trang trí là văn thừng mịn, văn khắc vạch với những đường thẳng, ngắn song song và hoa văn in hình vòng tròn nhỏ liền kề nhau. Một số mảnh gốm có dấu vết ám khói đen ở mặt ngoài, khả năng đã được sử dụng để đun nấu. Căn cứ vào kỹ thuật chế tác và hoa văn trang trí, có thể xác định những mảnh gốm này mang đặc trưng của đồ gốm Kim khí có niên đại cách ngày này khoảng 3.000 đến 2.500 năm.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trình Năng Chung cho biết, dựa vào nghiên cứu tổng thể các di vật đã được tìm thấy tại các hang, dựa vào kết cấu và tuổi trầm tích địa tầng văn hóa, bước đầu các nhà nghiên cứu cho rằng, hang Thẳm Un 2 là một di tích cư trú của nhiều thế hệ người tiền sử. Lớp cư dân sớm thuộc vào giai đoạn sơ kỳ Đá mới có niên đại cách ngày nay từ 8.000 đến 10.000 năm. Có một giai đoạn khá dài vài nghìn năm, di tích này không có người cư trú. Bên cạnh đó, khoảng từ 3.000 đến 2.500 năm, cư dân thời đại Kim khí đã đến đây sinh sống một thời gian ngắn, để lại dấu tích của mình thể hiện qua những di vật gốm. Di tích Thẳm Un 2 hàm chứa giá trị cao về mặt lịch sử, văn hóa và khoa học.
Hang Thẳm Un 2 cao khoảng 20m so với chân núi. Cửa hang hình vòm lớn quay về hướng Đông chếch Nam. Phía trước cửa hang là một thung lũng lớn, có dòng suối chảy qua. Diện tích lòng hang rộng khoảng 100m2. Phần lớn diện tích lòng hang nhận được ánh sáng tự nhiên rất thuận lợi cho sự cư trú của người tiền sử.
Các cơ quan chuyên môn đang có kế hoạch đào khảo sát những di tích hang Nậm Lù và hang Thẳm Pán trong thời gian tới.