“An Tĩnh Xưa” được Le Breton soạn thảo trong thời gian giảng dạy và làm hiệu trưởng ở trường Quốc học Vinh (Collège de Vinh, 1924-1928), thành quả xứng đáng từ những lớp tham quan dã ngoại được tổ chức thường xuyên, kết hợp với sự giúp đỡ của nhiều đồng nghiệp, học trò và đặc biệt nhất là nỗ lực nghiên cứu, tìm hiểu, tổng hợp, phân tích tư liệu của ông.
Trong cuốn sách này, giáo sư sử học Hippolyte Le Breton đã phân chia An Tĩnh ra nhiều “xứ” theo góc độ địa lý-lịch sử, địa lý-văn hóa, chứ không dập khuôn theo địa giới hành chính. Ngoài phần giới thiệu, mở đầu và kết luận, tác phẩm có hai Đề mục lớn (một số bản dịch khác gọi là Thiên); riêng Đề mục II có đến tám chương.
Đây thực sự là một công trình đồ sộ về tư liệu; khoa học về phương pháp nghiên cứu, diễn giải, và nhất là về tâm huyết, trí tuệ, như ông đã tự dẫn câu của chính mình làm đề từ: “Hiểu tức là yêu thương; yêu thương tức là hiểu. Hai lời lẽ này dựa vào nhau, cần biết gắn lại với nhau bằng một bàn tay khỏe mạnh và khéo léo”. Khi tiếp xúc với tác phẩm này, nhiều người đã khẳng định ngay giá trị không thể chối cãi của nó.
Giáo sư Le Breton đã để lại cho chúng ta một công trình đồ sộ về An Tĩnh có tính khóa học cao, dày 372 trang, kèm theo gần 200 bức ảnh, trong đó có một số chụp bằng máy bay. Tác giả được đào tạo ở Pháp, có phương pháp làm việc tốt, lại có phương tiện hiện đại như máy chụp ảnh, có máy bay giúp sức, có địa đồ chính xác, có các ngành khoa học khác hỗ trợ như: địa chất, địa động học, địa lý khảo cổ... Qua 4 năm dạy học ở Vinh, kết hợp với môn sử học, giáo sư có hàng trăm học trò đi theo để khảo sát nhiều nơi, để sưu tầm, ghi chép dưới hình thức lớp học du ngoạn.
Ông cũng biết tổ chức và sử dụng nhiều cộng tác viên là học giả nho học như cụ Nguyễn Đức Tánh (Tú Tánh, người làng Hoành Sơn), cụ nghè Nguyễn Mai (tiến sĩ, quê xã Tiên Điền); lại còn một đội ngũ trí thức tân học giúp sức giáo sư như Nguyễn Văn Tố (Viện Viễn đông Bác cổ-Hà Nội), Lê Thước (giáo sư Quốc học Vinh)... Lại có hai cơ quan chuyên môn khuyến khích, cung cấp tư liệu là: Viện Viễn đông Bác cổ (Ecole Francaise de L’extreme Orient), hội những bạn xứ Huế xưa (Societé des Amis du Vieux Huế). Hai cơ quan này có tạp chí chuyên ngành nên có điều kiện công bố kịp thời những công trình nghiên cứu của giáo sư. Từ những bài báo ấy về sau giáo sư sưu tập và biên soạn lại để in thành “An Tĩnh xưa” (Le Lieux An Tinh) vào năm 1936.
Tuy vậy Le Breton cũng gặp rất nhiều khó khăn. Là người nước ngoài, ngôn ngữ bất đồng, thời gian cư trú ở Vinh rất ngắn ngủi (chỉ 4 năm). Những thư tịch Hán Nôm phải nhờ người khác thông dịch qua tiếng Việt, rồi mới dịch sang tiếng Pháp. Mỗi khi về các làng xã, tuy có học trò đi theo, lý hương, chức sắc sở tại thường mặc cảm, không cởi mở, vì dù sao họ vẫn nhìn giáo sư với con mắt “đó là một ông Tây thực sự”, một ông Tây đang phục vụ chế độ thực dân.
“An Tĩnh Xưa” được dịch giả Nguyễn Bân dịch trong những thập niên 1970, 1980; chủ yếu dùng làm tư liệu cho bản thân và bè bạn, đến bản dịch khá đầy đủ năm 1991 được chép tay trong một cuốn vở học sinh và bản hoàn thiện năm 1997.
Ông Võ Hồng Hải - Tiến sĩ Văn hóa học, Trưởng Ban Tổ chức tỉnh ủy tỉnh Hà Tĩnh, Nguyên Giám đốc Sở Văn hóa tỉnh Hà Tĩnh đánh giá đây là bản dịch rất đảm bảo nguyên tắc dịch thuật các công trình khoa học - chính xác, sát ý, trung thành với nguyên tác… Bởi ngoài trình độ Pháp ngữ, dịch giả Nguyễn Bân còn là một nhà Địa phương học am tường về địa lý, lịch sử, văn hóa xứ Nghệ, một người luôn sống và làm việc nghiêm cẩn, cầu thị, và hơn nữa, là một người trọn đời gắn bó, yêu quý, khát khao dâng hiến tâm sức cho mảnh đất Hồng Lĩnh - Lam Giang, quê hương thứ hai của ông.
“An Tĩnh Xưa” được các học giả, nhà nghiên cứu đánh giá cao, là tuyệt tác chuyên khảo lịch sử, không chỉ để lại kho tư liệu phong phú, quý giá về xứ Nghệ mà còn hướng đến phương pháp khảo cứu biên soạn đa dạng dựa trên tri thức của nhiều bộ môn, nhiều tài liệu liên quan. Cuốn sách nằm trong tủ sách “Hiểu Việt Nam qua tư liệu Pháp ngữ” của Omega Plus.