Nhà thơ Từ Nguyên Thạch, cho biết: “Tôi chủ yếu viết dựa theo cảm xúc từ những hồi ức về những chuyện có thật, trong đó có nhiều hồi ức về chiến tranh. Có lẽ do tôi sống ở vùng đất có nhiều chiến tranh từ nhỏ nên bị ám ảnh”.
Được biết đến nhiều với danh xưng nhà thơ nhưng Từ Nguyên Thạch trải qua cuộc đời với phần lớn thời gian làm nhà giáo và ông có hơn 30 năm làm báo chuyên nghiệp. Năm 2019, Từ Nguyên Thạch về hưu và ông đã tìm thấy trong các sáng tác lâu nay của mình có nhiều truyện ngắn viết về chiến cuộc đã qua đủ để in một cuốn sách đầy đặn.
Tập truyên và ký Hai bên chiến tuyến vừa được NXB Tổng hợp TP.HCM ấn hành |
Lớn lên ở Nam Trung bộ, nơi người dân thường trong những vùng “xôi đậu”, vùng tạm chiếm, Từ Nguyên Thạch đã có những hồi ức chân thực trong “Hai bên chiến tuyến”. Chẳng những làm người trong cuộc ở hoàn cảnh ấy, tác giả còn chứng kiến từ ở những gia đình bạn bè, người thân của mình. Rất dễ dàng để nhìn thấy trên một bàn thờ người quá cố có hình ảnh của hai anh em ruột ở hai bên chiến tuyến khác nhau. Những bàn thờ khói hương như thế càng làm đau lòng những người mẹ đã sinh ra những đứa con mà hai anh em đã không thể ở cùng một chiến tuyến do số phận lịch sử đã chia cắt.
Nhà thơ Từ Nguyên Thạch, chia sẻ: “Truyện ‘Hai bên chiến tuyến’ lấy từ câu chuyện có thật của gia đình anh Lê Long- một người anh đồng nghiệp của tôi ở báo Người Lao Động. Anh tham gia Cách mạng từ thời sinh viên, sau đó vào R. Năm 1975 về tiếp quản Đài Phát thanh Sài Gòn. Một lần anh rủ đến nhà anh ở quận 4 ăn giỗ. Khi anh đứng thắp nhang, tôi thấy trên bàn thờ ngoài di ảnh ba, người dì còn có người em kế. Đáng chú ý ảnh người em mặc áo lính miền nam với ba bông mai trên ve áo”.
“Anh Lê Long cho biết người em là đại úy Biệt Động Quân. Thật ra, câu chuyện hai anh em ở hai bên chiến tuyến không phải là cá biệt trong nhiều gia đình Việt Nam. Như chuyện gia đình tôi, cô ruột tôi có chồng là du kích trong khi ba tôi là lính miền nam. Từ câu chuyện của gia đình, tôi viết truyện ký ‘O the’. Hay ‘Câu chuyện dưới hầm’ cũng lấy từ một chuyện có thật trong chiến tranh. Một sĩ quan Cộng hòa phát hiện một chiến sĩ Cách mạng bị thương ở trong một căn hầm. Anh lính đã lén bỏ lại thức ăn, thuốc men để giúp người chiến sĩ Cách mạng qua cơn nguy kich. Truyện ‘Má ơi, chúng con đã về’ cũng viết về hai anh em ruột ở hai phía... Qua các truyện này tôi muốn gửi đi một thông điệp là cùng chung tay thực hiện hòa hợp, hòa giải dân tộc. Vì đó là đạo lý, là lẽ sống của dân tộc: Anh em như thể tay chân/ Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần; Khôn ngoan đối đáp người ngoài/ Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau; Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn...”, nhà thơ Từ Nguyên Thạch cho biết thêm.
Nhà thơ Từ Nguyên Thạch |
Nhà nghiên cứu phê bình văn học Huỳnh Như Phương, nhận xét: “Mặc dù là nhà thơ lâu năm trước khi viết truyện, Từ Nguyên Thạch không đem chất thơ phả sương mù làm nhòa đi sự dữ dội của chiến tranh. Tuy nhiên, bên cạnh những thảm kịch kết thúc một cách đau đớn như chuyện tình ngang trái của Hoa và Doan (Chạy trốn), tình cảnh bi đát của gia đình Vinh và Hải (Chiếc xe đạp trúng thưởng) và số phận bất hạnh của o The (O The), ngòi bút Từ Nguyên Thạch đã an ủi chúng ta với những happy-ends trong Đá nở hoa, Mùi củ cải trắng, Đôi nạng gỗ đi qua thành phố. Con người không thể thiếu hy vọng để mà sống, huống chi đó không phải là trí tưởng tượng lãng mạn mà là một khía cạnh của chính sự thật cuộc đời. Thì chính câu chuyện gia đình của tác giả đó thôi: mẹ con, chị em đã đoàn tụ vẹn tròn sau 21 năm chia xa, cách trở…”.
Tập truyện và ký “Hai bên cuộc chiến” được nhìn bởi “dân thường” Từ Nguyên Thạch vì ông chưa từng cầm súng ở phía bên này hay bên kia. Tuy nhiên, như tác giả bộc bạch: “Tuy tôi chưa trực tiếp cầm súng nhưng tôi có những bạn bè đi lính mất trong chiến tranh, những người thân trong gia đình, trong dòng họ cầm súng ở cả hai phía. Bản thân tôi trực tiếp chứng kiến những trận đánh, máy bay ném bom, pháo bắn, những mất mát đau thương… Chừng đó thôi chiến tranh cũng đủ ám ảnh tôi, buộc tôi phải cầm bút. Mặt khác, viết về chiến tranh hiện nay còn nặng phần ngợi ca (làm sao mà không tránh được chủ quan) nên tôi muốn góp thêm cái nhìn của một dân thường ở đô thị miền Nam hay “vùng tạm chiếm” theo cách nói sau 1975. Và tôi nghĩ đó là điều cần thiết, vì nó làm cho cuộc chiến được nhìn một cách đầy đủ hơn”.