Trên trang cá nhân (mạng xã hội Facebook), Tiến sĩ Nguyễn Quốc Toàn là đồng sáng lập, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Tổ chức Giáo dục EQuest đã chia sẻ những nội dung về câu chuyện đầu tư từ dòng vốn xã hội, từ nước ngoài vào các doanh nghiệp, hệ thống mới trong nhiều lĩnh vực. Ngày Nay xin trích đăng các nội dung này.
Từ eFishery đến hiệu ứng domino niềm tin
eFishery – kỳ lân công nghệ nuôi trồng thủy sản của Indonesia – từng được định giá 1,4 tỷ USD, thu hút hàng trăm triệu USD từ các quỹ đầu tư lớn như SoftBank, Temasek, Sequoia. Nhưng công ty này đã dính vào bê bối khai khống doanh thu hàng trăm triệu đô-la Mỹ và báo cáo lợi nhuận từ lỗ thành lãi trong 9 tháng đầu năm 2024. Kết quả là các quỹ lớn nhiều khả năng sẽ mất trắng.
Vụ bê bối eFishery đã kích hoạt một làn sóng hoài nghi trong giới đầu tư. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài hoãn rót vốn, kéo dài thời gian thẩm định, hoặc tạm ngưng hoạt động tại khu vực do lo ngại gian lận tương tự có thể tái diễn.
Justin Hall – một lãnh đạo tại quỹ Golden Gate Ventures – bình luận: “Tôi nghĩ Đông Nam Á chắc chắn đã bị ảnh hưởng về mặt hình ảnh. Nhưng những doanh nghiệp bị tổn hại nặng nề nhất sẽ là các công ty giai đoạn tăng trưởng ở Indonesia. Ngay cả những doanh nghiệp tốt cũng sẽ bị soi xét kỹ lưỡng hơn rất nhiều – đến mức có nhà đầu tư sẽ phải cân nhắc rằng, có đáng để chấp nhận tất cả rắc rối này để đầu tư vào Indonesia hay không.”
Niềm tin mất đi – không chỉ một công ty, mà cả nền kinh tế phải trả giá
Từng được coi là điểm đến hấp dẫn bậc nhất của dòng vốn mạo hiểm tại Đông Nam Á, Indonesia rơi vào trạng thái “khô hạn đầu tư”. Hệ quả từ vụ eFishery không dừng ở các quỹ bị lừa – mà lan rộng đến toàn bộ hệ sinh thái khởi nghiệp, tài chính và doanh nghiệp trong nước.
Nhiều định chế tài chính quốc tế – từng xem Indonesia là nơi có tiềm năng tăng trưởng – nay bắt đầu xếp quốc gia này vào danh sách có “rủi ro quản trị cao”. Không khí thận trọng lan rộng, khiến toàn khu vực Đông Nam Á chứng kiến sự chững lại rõ rệt trong hoạt động gọi vốn giai đoạn hậu tăng trưởng.
Đấy là chuyện ở Indonesia. Còn Việt Nam thì sao?
Theo DealStreetAsia, một tờ báo thuộc Nikkei, chuyên nghiên cứu về các thương vụ đầu tư tư nhân (private equity) ở châu Á, các thương vụ đầu tư vào Việt Nam đã giảm kỷ lục trong năm 2024 và chỉ tăng rất nhỏ trong năm 2025.
Nếu so với thời kỳ đỉnh cao vào quý 2 năm 2021 và quý 4 năm 2021 với số tiền đầu tư đạt 873 triệu USD và 985 triệu USD, thì quý 2 năm 2024 chỉ có 47 triệu USD và quý 1 năm 2025 chỉ có 167 triệu USD đầu tư vào Việt Nam. Số lượng thương vụ cũng giảm đáng kể từ 25 thương vụ quý 1 năm 2021, xuống còn 11 thương vụ trong quý 1 năm 2025. Đây là những con số rất đáng lo ngại.
Bên cạnh lý do định giá cao trong những năm trước, môi trường toàn cầu bất ổn, thì khả năng thoái vốn và niềm tin vào môi trường đầu tư tại Việt Nam là một trong những lý do lớn cho việc giảm đáng kể số tiền đầu tư từ các quỹ nước ngoài.
Chủ trương của Chính phủ Việt Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngoài là rất nhất quán, thể hiện qua những cam kết mạnh mẽ về cải thiện môi trường kinh doanh và bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư.
Nhưng một số hành vi cụ thể của các doanh nghiệp Việt Nam liệu có tương xứng với sự mong đợi của Chính phủ?
Nhìn lại lịch sử đầu tư vốn tư nhân ở Việt Nam, sẽ không khó để tìm thấy hàng loạt vụ việc mà trong đó nhà đầu tư nước ngoài rơi vào thế yếu – thậm chí bị “bắt nạt” bởi chính đối tác trong nước. Những tranh chấp kéo dài, những cam kết bị phá vỡ, và những quy trình pháp lý khiến nhà đầu tư mất kiên nhẫn đang tạo ra một rào cản với dòng vốn quốc tế.
Còn nữa...