Trong khi đó, số liệu thống kê cho thấy chỉ trong 7 tháng đầu năm, cả nước có trên 100.000 ca mắc sốt xuất huyết (SXH) với hơn chục trường hợp tử vong.
Bệnh viện tỉnh đến TP.HCM mượn thuốc
Theo tìm hiểu của PV Thanh Niên, hiện các bệnh viện (BV) đang lo lắng dịch cao phân tử (CPT) trọng lượng 200.000 dalton, còn gọi là dung dịch phân tử 6% (HES 200.000 dalton, gọi tắt là dịch CPT 6%) điều trị cho bệnh nhân SXH nặng, sốc bị đứt hàng vì hãng cung cấp sản phẩm (công ty nước ngoài - PV) tuyên bố ngừng sản xuất.
Theo số liệu sử dụng dịch CPT 6%, năm 2018 BV Nhi đồng 1 TP.HCM sử dụng 2.000 chai; BV Nhi đồng 2 sử dụng gần 600 chai; BV Bệnh nhiệt đới TP.HCM 800 - 1.000 chai. Giá mỗi chai dịch này qua đấu thầu là 137.000 đồng. Căn cứ vào nhu cầu sử dụng năm 2018, năm 2019 các BV cũng đã dự trù số lượng dịch CPT 6% và lên kế hoạch cho đợt đấu thầu mới. Tuy nhiên, không có đơn vị cung cấp dịch CPT 6% nào dự thầu.
Dược sĩ Huỳnh Phương Thảo, Trưởng khoa Dược BV Bệnh nhiệt đới TP.HCM, cho hay BV chỉ còn khoảng 50 chai dịch CPT 6%, đủ điều trị cho vài chục bệnh nhân. BV đã lập kế hoạch mua thêm dịch CPT 6% trong đợt đấu thầu mới, nhưng công ty từng cung cấp dịch CPT 6% không tham gia. BV cũng đã có công văn hỏi phía nhà cung cấp nhưng công ty này chưa hồi đáp.
Tương tự, BV Nhi đồng 2 TP.HCM cũng chỉ còn hơn 60 chai dịch CPT 6%. Còn bác sĩ Lê Bích Liên, Phó giám đốc BV Nhi đồng 1, nói: “Chúng tôi đã dự trù đủ dịch CPT 6% cho mùa dịch SXH 2019. Tuy nhiên, hiện BV ở một số tỉnh đã hết loại dịch này nên “mượn” của BV Nhi đồng 1. Nếu BV ở các tỉnh khác tiếp tục “mượn”, chắc chắn sẽ không đủ điều trị cho bệnh nhân tại BV”. Cũng theo bác sĩ Liên, nếu không cho BV các tỉnh mượn dịch CPT 6%, bệnh nhân SXH sốc, nặng cũng sẽ được chuyển lên TP và khi đó bản thân BV cũng sẽ “vỡ trận”. “BV đã có công văn báo cáo Sở Y tế TP.HCM và Bộ Y tế”, lãnh đạo BV Nhi đồng 1 cho biết.
Sợ nhất là tình trạng các BV ở TP “nhượng thuốc” cho các BV khác và các BV ở các tỉnh khác chuyển người bệnh SXH bị sốc đến TP.HCM, gây nên tình trạng thiếu thuốc
Đại diện Phòng Nghiệp vụ dược, Sở Y tế TP.HCM
Thực tế, tại BV Bệnh nhiệt đới đã có bệnh nhân SXH sốc nặng được chuyển từ Tây Ninh đến, đúng như lo ngại của một số BV. Các BV cũng lo lắng việc công ty sản xuất ngưng sản xuất hoặc Bộ Y tế chưa cấp phép kịp thì phía bị ảnh hưởng nặng nề nhất chính là... người bệnh.
Xoay xở tìm nguồn cung
Theo bác sĩ Nguyễn Thanh Trường, Trưởng phòng Kế hoạch - tổng hợp BV Bệnh nhiệt đới TP.HCM, bệnh SXH đang tăng mạnh so với những tháng đầu năm và số ca nặng (suy tạng, xuất huyết và sốc) khá nhiều. Hiện BV Bệnh nhiệt đới, Nhi đồng 1, Nhi đồng 2, mỗi nơi có 90 - 130 bệnh nhân SXH phải điều trị nội trú/ngày. Bệnh nhân SXH nặng chiếm 5 - 6%, trong đó tỷ lệ sốc SXH chiếm 70%. Trong số bệnh nhân bị sốc, khoảng 30% tái sốc có chỉ định dùng dịch cao phân tử.
“Bệnh nhân SXH tái sốc sẽ được chỉ định dùng dịch CPT 6%. Nếu không, bệnh nặng khó có thể được cứu chữa”, bác sĩ Trường nói. Cũng theo bác sĩ Trường, nếu không còn dịch CPT 6% thì BV phải xài các loại dịch CPT khác (dextran 40, dextran 70...), nhưng các loại dịch CPT này gây tình trạng rối loạn đông máu, dị ứng... nhiều hơn so với dịch CPT 6%.
Về nguy cơ cạn kiệt dịch CPT 6%, trả lời PV Thanh Niên, đại diện Phòng Nghiệp vụ dược Sở Y tế TP.HCM, cho biết hiện hãng cung cấp sản phẩm nước ngoài tuyên bố ngừng sản xuất. Sở đã có văn bản gửi Cục Quản lý khám, chữa bệnh và Cục Quản lý dược (Bộ Y tế) để tìm giải pháp thay thế trong phác đồ điều trị và thuốc liên quan. “Sợ nhất là tình trạng các BV ở TP “nhượng thuốc” cho các BV khác và các BV ở các tỉnh khác chuyển người bệnh SXH bị sốc đến TP.HCM, gây nên tình trạng thiếu thuốc”, vị này nói.
Trong khi đó, theo Cục Quản lý dược, trong phác đồ điều trị SXH (do Bộ Y tế ban hành năm 2011 và cập nhật ngày 22.8.2019), dung dịch CPT được chỉ định điều trị chống sốc trên bệnh nhân SXH nặng. Các dung dịch CPT đã được sử dụng tại VN, gồm: dextran 40, dextran 70 và HES 200.000 dalton. Tất cả các thuốc này đều được sản xuất tại nước ngoài và đã được cấp số đăng ký lưu hành tại VN. Hiện có 6 loại dịch điều trị SXH có giấy đăng ký lưu hành thuốc tại VN còn hiệu lực; được nhập khẩu theo nhu cầu mà không cần thực hiện việc cấp phép nhập khẩu. Tuy nhiên, do đặc thù thị trường nước ngoài, nhu cầu sử dụng các thuốc này thấp nên nguồn cung rất hạn chế.
Cũng theo Cục Quản lý dược, ngay khi nhận được thông tin về nguy cơ thiếu thuốc, Cục đã có công văn chỉ đạo các cơ sở nhập khẩu, cơ sở kinh doanh liên hệ với nhà sản xuất nước ngoài để tìm nguồn cung ứng thuốc; hướng dẫn các cơ sở lập hồ sơnhập khẩu trong trường hợp nhà sản xuất không thể cung ứng thuốc có số đăng ký tại VN để Cục xem xét, cấp phép nhập khẩu nhằm đảm bảo cung ứng thuốc đầy đủ, kịp thời cho nhu cầu của các cơ sở khám, chữa bệnh.