Tuy nhiên, do dấu hiệu của ung thư đại tràng thường dễ bị nhầm với các rối loạn tiêu hóa khác nên nhiều trường hợp đi khám khi bệnh đã ở giai đoạn muộn.
Đối tượng nguy cơ dễ mắc ung thư đại tràng là: Người trên 50 tuổi. Người có tiền sử mắc các bệnh viêm nhiễm đại tràng mạn tính như viêm loét đại tràng chảy máu, bệnh Crohn. Bản thân hoặc gia đình có người mắc bệnh polyp đại tràng, đặc biệt là đa polyp có tính chất gia đình, hội chứng Lynch. Có chế độ ăn không hợp lý: nhiều chất béo, ít chất xơ. Lười hoạt động thể chất, hút thuốc, béo phì...
Thủ phạm gây ung thư đại tràng
Polyp đại tràng: Là nguyên nhân quan trọng gây ung thư đại tràng. Trên 50% trường hợp ung thư đại tràng phát sinh trên cơ sở của polyp đại tràng. Số lượng polyp càng nhiều thì tỷ lệ ung thư hoá càng cao.
Các bệnh đại tràng mạn tính: Ung thư đại tràng có thể phát sinh trên tổn thương của các bệnh: lỵ, amip, lao, giang mai, thương hàn và các bệnh lý khác của đại tràng như viêm loét đại tràng mạn tính.
Chế độ ăn uống ít chất xơ, nhiều mỡ và đạm động vật: Chế độ ăn này làm thay đổi vi khuẩn yếm khí ở đại tràng, biến một vài chất thành những chất gây ung thư. Đồng thời thức ăn ít bã làm giảm khối lượng phân gây táo bón, chất gây ung thư sẽ tiếp xúc với niêm mạc ruột lâu hơn và cô đặc hơn, tác động lên biểu mô của đại tràng.
Yếu tố di truyền: Bệnh polyp đại tràng gia đình liên quan tới đột biến của gene APC (Adenomatous polyposis coli), chiếm 1% các ung thư đại tràng. Ngoài ra, còn gọi là hội chứng Lynch liên quan tới gene P53, RAS và DCC, chiếm 5% trong số các ung thư đại trực tràng.
Triệu chứng ung thư đại tràng
Đau bụng: là một trong những triệu chứng sớm nhất và có ở 70 - 80% bệnh nhân ung thư đại tràng. Xuất hiện cơn đau bất cứ lúc nào trong ngày, không liên quan đến bữa ăn, vị trí đau thường ở vùng bị ung thư. Cơn đau có thể dài hay ngắn, từ vài phút đến vài giờ. Cường độ đau lúc đầu thì ít, về sau đau nhiều. Người bệnh đau bụng từng cơn, đôi khi thấy sôi bụng, sau khi trung tiện được thì hết đau.
Rối loạn tiêu hoá: Thường có ở 60% bệnh nhân ung thư đại tràng. Biểu hiện bằng táo bón, tiêu lỏng hoặc xen kẽ giữa táo bón và tiêu lỏng.
Phân lẫn máu: Người bệnh đi tiêu, phân thường có máu do chảy máu ở vị trí ung thư. Xuất huyết ở đại tràng phải phân thường có màu đỏ sẫm, xuất huyết ở đại tràng trái phân có màu đỏ tươi hơn. Phân lẫn máu thường có ít chất nhầy của niêm mạc ruột. Hiện tượng xuất huyết thường rỉ rả, từng ít một nên lúc đầu không làm ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh. Sau đó, do mất máu kéo dài nên làm người bệnh thiếu máu.
Triệu chứng toàn thân: có thể sụt cân từ từ làm người bệnh không chú ý, nhưng cũng có khi sụt cân nhanh (5kg trong 1 tháng) kèm theo các triệu chứng chán ăn, mệt mỏi. Thiếu máu mà không biểu hiện rõ sự mất máu nên khó phát hiện. Khoảng 16 - 18% bệnh nhân ung thư đại tràng có triệu chứng duy nhất là sốt.
Khối u: Gặp ở 60% nhân bệnh ung thư đại tràng. Khi sờ thấy u của đại tràng thì thường là bệnh đã đến giai đoạn muộn.
Ung thư đại tràng có chữa được không?
Ung thư đại tràng là một trong những loại ung thư đường tiêu hóa có tiên lượng tốt trong trường hợp phát hiện khi bệnh còn ở giai đoạn sớm hoặc các tổn thương tiền ung thư. Nếu được phát hiện ở giai đoạn sớm thì tỷ lệ được chữa khỏi lên tới 90%, thậm chí có người đã sống khỏe mạnh hơn 20 năm sau khi phát hiện bệnh.
Tiên lượng sống sau 5 năm ở người bị ung thư tùy thuộc vào giai đoạn bệnh, nếu phát hiện khi bệnh ở giai đoạn sớm thì điều trị hiệu quả hơn. Tiên lượng sống sau 5 năm theo giai đoạn là: giai đoạn 1: 90%, giai đoạn 2: 80-83%, giai đoạn 3: 60%, giai đoạn 4: 11%
Cách phòng ngừa ung thư đại tràng
Kiểm tra đại trực tràng thường xuyên là một trong những cách tốt nhất để phòng tránh ung thư. Polyp tiền ung thư thường không biểu hiện triệu chứng, có thể được tìm thấy qua nội soi đại tràng vài năm trước khi ung thư xâm lấn phát triển. Kiểm tra sàng lọc cũng tìm thấy được polyp tiền ung thư và cắt bỏ trước khi nó trở thành ung thư. Đây được xem là cách phòng bệnh cụ thể nhất.
Ung thư đại tràng có thể phòng tránh được thông qua thói quen ăn uống lành mạnh. Có nhiều yếu tố nguy cơ mà mọi người có thể phòng tránh được như: các loại thịt đỏ (thịt bò, thịt cừu) được xem là có liên quan mật thiết đến ung thư đại tràng. Ăn khoảng 160g/ngày hoặc chế độ ăn với thịt quá 5 lần/tuần có nguy cơ ung thư đại tràng cao gấp 3 lần. Thực phẩm chế biến dưới hình thức chiên, nướng, thịt xông khói, dăm bông, xúc xích, chất đạm sẽ làm tăng yếu tố sinh ung thư, còn mỡ sẽ bị chuyển hóa bởi vi khuẩn trong lòng ruột, làm tăng sản các tế bào biểu mô bất thường và phát triển thành ung thư. Ăn nhiều thịt, mỡ, đạm, ít chất xơ dễ dẫn đến béo phì và có nguy cơ cao gây ung thư đại tràng, nên cần thay đổi chế độ ăn khoa học hơn để phòng bệnh. Các loại nước uống chứa cồn làm tăng nguy cơ ung thư đại tràng.
Các thức ăn chứa nhiều chất xơ (rau xanh, trái cây) giúp giảm nguy cơ ung thư đại tràng. Hoạt động thể lực, vận động hay luyện tập thể dục sẽ làm giảm nguy cơ mắc bệnh.