50 năm thống nhất đất nước: Chương trình nghệ thuật đặc biệt giao hưởng thính phòng 'Bài ca Thống nhất'

0:00 / 0:00
0:00
(Ngày Nay) - Tối 21/4, tại Nhà hát Quân đội khu vực phía Nam (Thành phố Hồ Chí Minh), Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức Chương trình nghệ thuật đặc biệt giao hưởng thính phòng “Bài ca thống nhất”, chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025).
Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa (áo trắng), Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương và các đại biểu dự Chương trình.
Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa (áo trắng), Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương và các đại biểu dự Chương trình.

Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương; Thượng tướng Trịnh Văn Quyết, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Đại tướng Nguyễn Tân Cương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Võ Minh Lương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; các Mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và đông đảo cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang, nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cùng dự Chương trình.

Chương trình nghệ thuật đặc biệt giao hưởng, thính phòng “Bài ca thống nhất” gồm phần khai từ với tác phẩm Overture “Đất nước bên bờ sóng-Dấu chân phía trước”, tái hiện Việt Nam từ thủa bình minh dựng nước, các cuộc đấu tranh gìn giữ chủ quyền, hành trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng sự phát triển vươn mình trong thời đại mới. Nội dung chính của Chương trình gồm 3 chương.

Chương 1 với chủ đề “Miền Nam đi trước về sau” gồm các tác phẩm như “Trở về đất mẹ” (Nguyễn Văn Thương); “Biết ơn chị Võ Thị Sáu” (Nguyễn Đức Toàn), “Tiểu đoàn 307” (Nguyễn Hữu Trí)… phản ánh không gian lịch sử giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc đến năm 1954, thể hiện lòng yêu nước, khí thế đấu tranh và tinh thần bất khuất của dân tộc…

Chương 2 mang chủ đề “Bài ca ra trận” với những bài ca đi cùng năm tháng như “Bước chân trên dải Trường Sơn” (Vũ Trọng Hối), “Trên đỉnh Trường Sơn ta hát” (Huy Du), “Đưa cơm cho mẹ đi cày” (Hàn Ngọc Bích), “Bài ca Hà Nội” (Vũ Thanh)… ca ngợi tinh thần trung kiên của quân và dân ta, sự anh dũng của những người lính, tình hậu phương, khát vọng hòa bình, gợi nhớ về thời kỳ bi tráng, hào hùng của quân và dân ta giai đoạn 1954-1975.

Chương 3 với chủ đề “Tượng đài chiến thắng” gồm các tác phẩm “Dáng đứng Bến Tre” (Nguyễn Văn Tý), “Sông Đăk Rông mùa xuân về (Tố Hải); Liên khúc “Xuân Chiến khu - Chào anh giải phóng quân mừng mùa xuân đại thắng” (Xuân Hồng - Hoàng Vân), “Người là niềm tin tất thắng” (Chu Minh), “Bài ca thống nhất” (Võ Văn Di)… khắc họa những hình tượng anh hùng trong kháng chiến chống Mỹ, niềm tự hào dân tộc trong thời khắc chiến thắng cũng như thể hiện lịch sử, sức mạnh và khát vọng của Việt Nam qua các giai đoạn thống nhất đất nước, đổi mới, hội nhập quốc tế và phát triển vững bước vào kỷ nguyên mới.

Chương trình “Bài ca thống nhất” với sự tham gia trình diễn của Dàn nhạc Giao hưởng Quân đội; các nghệ sỹ Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Hợp xướng Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Thành phố Hồ Chí Minh.

Các nghệ sỹ tham gia biểu diễn gồm nhiều gương mặt tiêu biểu như Nghệ sĩ nhân dân Dương Minh Đức; các Nghệ sĩ ưu tú: Vũ Thắng Lợi, Phạm Khánh Ngọc, Vân Mai… Chỉ huy dàn nhạc gồm Đại tá, Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Xuân Bắc và Nghệ sĩ ưu tú Trần Vương Thạch.

Chương trình nghệ thuật Giao hưởng thính phòng đặc biệt “Bài ca Thống nhất” hướng tới việc tuyên truyền sâu sộng ý nghĩa, tầm vóc và giá trị lịch sử vĩ đại của Đại thắng mùa Xuân năm 1975, dấu mốc vàng son của dân tộc Việt Nam; khẳng định Chiến thắng 30/4/1975 là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; tôn vinh và tri ân sâu sắc những thế hệ cha anh đã không tiếc máu xương, cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Từ đó khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, khẳng định giá trị trường tồn của Chiến thắng 30/4/1975, nâng cao trách nhiệm của thế hệ hôm nay trong việc gìn giữ, phát huy truyền thống hào hùng của dân tộc, biến niềm tự hào thành động lực, chung tay xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước.

Người gieo chữ bằng yêu thương ở làng Hữu Nghị
Người gieo chữ bằng yêu thương ở làng Hữu Nghị
(Ngày Nay) - Làng Hữu nghị Việt Nam được biết đến là nơi cưu mang những nạn nhân chất độc da cam. Ở đó, suốt 13 năm qua, cô giáo Nguyễn Thị Loan đã kiên nhẫn gieo từng con chữ, từng kỹ năng sống và từng niềm hy vọng cho những đứa trẻ mang nhiều khiếm khuyết nhưng luôn khao khát được lớn lên như bao người khác.
Độc lập và hạnh phúc trong các doanh nghiệp xã hội NICE
Độc lập và hạnh phúc trong các doanh nghiệp xã hội thuộc Mạng lưới NICE
(Ngày Nay) - Có bao giờ bạn tự hỏi liệu những người khuyết tật thật sự cần gì? Họ cần lòng thương cảm? Hay họ cần các món quà vật chất từ các chương trình cứu trợ? Đều không phải. Thứ người khuyết tật cần hơn cả là được nhìn nhận như những công dân bình thường. Họ không muốn bản thân mình trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Họ muốn được thể hiện bản thân, được cống hiến hết mình cho cuộc sống này, để được độc lập và hạnh phúc.
Ảnh minh hoạ.
Tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển giáo dục nghề nghiệp
(Ngày Nay) - Bộ Giáo dục và Đào tạo đang dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục nghề nghiệp nhằm hướng dẫn các quy định mới của Luật Giáo dục nghề nghiệp, kiến tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu của người học, thị trường lao động.
Hoạt động nghiên cứu khoa học tại trường Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (USTH). Ảnh: VGP.
Đầu tư khoa học cơ bản đúng hướng, hiệu quả được đo đếm rõ ràng
(Ngày Nay) - Sau hơn 5 năm triển khai, Chương trình 562 về phát triển khoa học cơ bản đã ghi dấu bằng những kết quả cụ thể: Số lượng và chất lượng công bố quốc tế tăng đều, nhiều nhóm nghiên cứu mạnh được hình thành, vị thế khoa học Việt Nam tiếp tục được củng cố trên bản đồ khu vực và thế giới.